Con gà trong đời sống văn hóa Việt Nam

10:56 SA @ Thứ Tư - 22 Tháng Ba, 2017

Trong các vật nuôi, gà là loài gia cầm được thuần hóa từ rất sớm, được sử dụng phổ biến và lâu dài, mang giá trị vật chất đa dạng, tạo giá trị tinh thần phong phú, ảnh hưởng sâu rộng đến tâm linh và đời sống văn hóa của người Việt Nam. Hình ảnh con gà đã xuất hiện nhiều từ thời xưa, như hình gà và chim hạc là hiện vật tiêu biểu trên các mặt trống đồng Đông Sơn, gà chín cựa - một trong ba lễ vật thách cưới đặc biệt - trong truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh, con gà trắng sống đến ngàn năm tuổi trong truyền thuyết xây thành Cổ Loa, thời an Dương Vương,...

Gà là một trong 6 vật nuôi thông dụng nhất (lục súc: gà, chó, lợn, dê, ngựa, trâu) và là thứ lễ vật quan trọng để cầu cúng, tế dâng thần thánh tại các đình đền miếu trong dịp lễ. Đặc biệt, trong lễ tiến cúng thờ Mẫu, Thánh, Ngũ Phủ Công Đồng không thể thiếu gà trống nguyên con đã làm sạch, luộc chín, mỏ ngậm một bông hoa. Theo quan niệm tín ngưỡng truyền thống, gà (kê) được coi là vật đại diện cho một ngày đầu tiên, quan trọng và thiêng liêng nhất của một năm - ngày mùng một tháng giêng - được gọi là kê nhật. Trong sự kết hợp thiên can với địa chi để tính thời gian và chu kỳ phát triển, gà nhập hệ lịch can chi 12 con vật, là biểu tượng chi dậu - một chi quan trọng, mang những ý nghĩa triết lý và nhân văn sâu sắc. Giờ dậu kéo dài từ 17 đến 19 giờ, là giờ gà lên chuồng, giờ mở đầu buổi tối, con người ăn tối và nghỉ ngơi; tháng dậu là tháng tám âm lịch, giữa mùa thu, thời tiết đẹp và dễ chịu nhất, nhiều loài cây cối bắt đầu cho thu hoạch quả, hạt. Người ta còn cho rằng người sinh năm gà (tuổi dậu) thường chăm chỉ, hoạt bát, tài giỏi, thành đạt và gặp nhiều may mắn, hạnh phúc trong đời. Gà trống cũng được coi là biểu tượng cho 5 đức tính, phẩm chất tốt đẹp: văn, võ, dũng, nhân và tín.

Hình ảnh con gà trong ngôn ngữ Việt Nam

Ngôn ngữ luôn là nền tảng của đời sống tinh thần và văn hóa con người. Trong ngôn ngữ Việt Nam, hình ảnh gà xuất hiện rất đa dạng, diễn tả chi tiết hoặc đầy ngụ ý. Chúng ta gặp “gà” (kê, dậu) ở nhiều tình huống, nhiều lĩnh vực ngôn từ: tự nhiên và xã hội, lý thuyết sách vở và giao tiếp thực tiễn. “Gà nòi” thể hiện sự thuần chủng, lão luyện; “gà tồ”, “gà công nghiệp” lại chỉ người to xác mà khờ khạo, ngờ nghệch, vụng về; “gà rù”, “gà toi” ví những người yếu nản, xơ xác, ủ rũ; “tóc đuôi gà” là kiểu tóc buộc túm cho cong vồng lên; “như gà bới” chê chữ viết, bản vẽ hoặc quy hoạch, kết cấu lộn xộn, rối tung; “gà mái gáy” chỉ hiện tượng bất thường, báo điềm gở; “gà trống nuôi con” là đàn ông góa vợ phải tự mình vất vả nuôi dạy con cái… Gà hiện diện trong nhiều địa danh đồi núi, sông hồ, bến đảo, ga chợ…trên khắp mọi miền đất nước: hòn Gà Chọi là biểu tượng của vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), suối Mỏ Gà ở Võ Nhai (Thái Nguyên), suối nóng Kênh Gà ở Gia Viễn (Ninh Bình), mũi đất và ngọn hải đăng Kê Gà ở Hàm Thuận Nam (Bình Thuận)…

Con gà trong sinh hoạt văn hóa của người Việt

Hình ảnh gà trở nên sinh động, gần gũi hơn qua những trò chơi và lễ hội truyền thống. Phổ biến và đặc sắc nhất vẫn là chọi gà - trò chơi này thường được tổ chức trong những ngày hội hoặc các phong trào văn hóa dân dã. Chọi gà vốn đã có từ lâu đời, từ thời Tiền Lê (980-1009) nó đã được đưa vào cung đình, làm trò giải trí cho vua quan. Đến cuối thế kỷ 18, Nguyễn Lữ - một trong ba thủ lĩnh quân Tây Sơn - đã sáng lập ra môn hùng kê quyền (quyền gà chọi) là bài quyền mô phỏng các kỹ thuật của gà chọi, ngày nay hùng kê quyền đã trở thành một trong 10 bài danh võ được Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam lựa chọn chính thức qua các kỳ hội nghị chuyên môn toàn quốc.

Còn trong lĩnh vực kiến trúc, tạo hình, trang trí, hình tượng gà được thể hiện khá đa dạng (tranh, bia, miếu, đình, đền, chùa, rạp, nhà, công sở…) với nhiều loại chất liệu (đất, đá, vữa, bạc, đồng, gỗ, mực…), và bằng nhiều kỹ thuật (tạc, đắp, nặn, xăm, chạm, khắc, đúc, nung, vẽ…). Hình tượng gà xuất hiện phổ biến trên nhiều vật dụng thời xưa của người dân và trong các đình đền, chùa miếu. Không chỉ trên trống đồng Đông Sơn, trống đồng Hoàng Hạ và Ngọc Lũ, người ta còn tìm thấy hình đầu gà bằng đất nung tại xóm Rền (Phú Thọ), tượng con gà bằng đất nung ở Đồng Đậu (Vĩnh Phúc) có niên đại cách đây khoảng 33 thế kỷ. Các tượng gà bằng đồng thau với niên đại cách đây 20-30 thế kỷ cũng được tìm thấy ở Vinh Quang, gò chùa Thông (Hà Nội), gò Chiềng Vây (Hòa Bình). Đồ gốm có hình tượng gà là sản phẩm được tìm thấy ở nhiều làng gốm cổ truyền: Bát Tràng (Hà Nội), Phù Lãng (Bắc Ninh), Thụy Lôi (Hà Nam), Gia Thủy (Ninh Bình), Thanh Hà (Quảng Nam), Bàu Trúc (Ninh Thuận)… Với đồ gỗ mỹ nghệ, hình tượng gà cũng phổ biến không kém. Nhưng bức tượng gà lớn nhất Việt Nam và bậc nhất thế giới lại không phải bằng đồng, gốm, gỗ… mà bằng bê tông cốt thép: bức tượng gà trống 9 cựa đang gáy được thiết kế và thi công năm 1978-1979, cao 3,2 m, nặng khoảng 8 tấn, đặt trên mô đất cao 1,5 m tại làng Darahoa, xã Hiệp An, huyện Đức Trọng (Lâm Đồng) - biểu tượng tinh thần và nguồn cung cấp nước cho người dân tộc Cơ Ho ở đó. Tranh vẽ gà cũng xuất hiện khá sớm, phổ biến nhất tại làng tranh Đông Hồ (Bắc Ninh) với các bức tranh gà tiêu biểu: Đại cát, Vinh hoa, Gà gáy sáng, Mẹ con đàn gà...

Không chỉ xuất hiện trong đời sống của dân tộc Kinh, gà cũng đi sâu vào đời sống văn hóa của nhiều dân tộc trong cộng đồng Việt Nam: Người Tày và người Nùng quan niệm rằng trong đêm giao thừa, với các vật nuôi, nếu gà kêu hoặc gáy trước tiên thì gia đình sẽ may mắn, hạnh phúc năm mới, lễ vật đi tết quan trọng nhất là gà trống thiến, còn đi ăn hỏi quan trọng nhất là một đôi gà; người Mông thì coi gà trống là cầu nối giữa thế giới con người và thế giới thần linh; người Cơ Tu lại coi con gà là biểu hiện cho sự sống, gắn liền với ánh sáng, với Mặt Trời. Đối với người Khơ Mú, cô dâu chú rể trong ngày cưới phải chìa đầu gối ra cho ông mối rỏ tiết gà tươi vào (nếu giọt tiết chảy xuôi theo ống chân xuống thì hai vợ chồng sẽ sống hạnh phúc hòa thuận, còn nếu chảy lệch hẳn sang một bên hoặc chia làm hai ngả thì cuộc sống hôn nhân sẽ đối mặt với nhiều thử thách). Người Pu Péo thì có tục lệ đón cướp giọng gà ngày Tết: đêm giao thừa, gia đình phải canh chừng lũ gà trống, khi chúng vỗ cánh, chuẩn bị gáy thì họ lập tức đốt một vài quả pháo, ném vào chuồng khiến lũ gà giật mình, nhảy lên thi nhau gáy và mọi người liền cùng nhau hát vang nhà để át tiếng gà với quan niệm tiếng gà gáy vừa hay vừa thiêng, đánh thức thần Mặt Trời dậy, ai át được tiếng gà thì năm mới sẽ hát hay, gặp nhiều may mắn và thành công.

Qua đó cho thấy, gà đã gắn liền với đời sống của người Việt Nam, là con vật đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần, hình ảnh con gà đi vào lời ca, tiếng nói, truyền thuyết, phong tục tập quán và sinh hoạt tâm linh