
Tập đoàn Hóa chất Việt Nam là tập đoàn hoạt động kinh doanh đa ngành giữa sản xuất, kinh doanh với khoa học, công nghệ, nghiên cứu triển khai, đào tạo nguồn nhân lực cho Ngành Công nghiệp hóa chất Việt Nam. Chính vì lẽ đó nên kể từ khi thành lập đến nay, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem) luôn đặc biệt coi trọng công tác khoa học và công nghệ (KH&CN), coi KH&CN là động lực quan trọng nhất đảm bảo cho sự phát triển ổn định, vững chắc của Tập đoàn. Với quan điểm Tập trung đầu tư chiều sâu, nâng cao năng lực sản xuất đồng thời từng bước đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị bằng cách tăng cường ứng dụng công nghệ, thiết bị nhập khẩu tiên tiến, hiện đại, kết hợp chặt chẽ với việc đẩy mạnh công tác nghiên cứu KH&CN để làm chủ công nghệ nhập, phát triển tiềm năng khoa học công nghệ, từng bước tạo ra công nghệ của mình, trong những năm qua, Vinachem đã triển khai công tác KH&CN đạt kết quả tốt, góp phần quan trọng trong việc ổn định sản xuất, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên vật liệu, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường và sức khỏe cho người lao động.
Vinachem luôn chủ động, tích cực tham gia và triển khai thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về KH&CN, như Chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả, Chương trình sản xuất sạch hơn, Đề án nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, hàng hóa ngành công nghiệp, Đề án đổi mới và hiện đại hóa ngành công nghiệp khai khoáng, Việc tham gia các chương trình đề án của nhà nước giúp nâng cao nhận thức chung về sử dụng tài nguyên, nguyên vật liệu, năng lượng một cách hiệu quả nhất; không chỉ góp phần tích cực trong việc đảm bảo chất lượng, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm mà còn đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường, có tác động lan tỏa ảnh hưởng đến hiệu quả của nhiều doanh nghiệp thuộc Tập đoàn.
Trong những năm qua, đổi mới công nghệ trong ngành đã gia tăng hơn trước và mang lại những kết quả khả quan. Nhờ ứng dụng và đổi mới công nghệ, năng lực và trình độ công nghệ của một số ngành như phân bón, hóa chất cơ bản, cao su, điện hóa, đã được nâng cao, một số đơn vị đã làm chủ được công nghệ ngoại nhập, đạt trình độ tiên tiến của thế giới. Trong giai đoạn 2011-2015 nhiều công nghệ tiên tiến, hiện đại đã được đầu tư và khai thác có hiệu quả tại Tập đoàn. Có thể kể đến một số dự án ứng dụng công nghệ, thiết bị sản xuất mới tiên tiến, hiện đại, hoạt động hiệu quả như sau: Công ty CP Cao su Đà Nẵng, Công ty CP Công nghiệp Cao su Miền Nam đã đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất lốp ô tô theo công nghệ mới để sản xuất lốp radial toàn thép đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (DOT của Mỹ, JIS của Nhật và EMARK của châu Âu); Công ty TNHH MTV Apatit Việt Nam triển khai thực hiện 02 đề án lớn trong khai thác quặng apatit để tăng hệ số thu hồi tài nguyên, đảm bảo chất lượng quặng khai thác; Công ty CP Phân bón Bình Điền nghiên cứu đầu tư, ứng dụng công nghệ sản xuất NPK một hạt trên nền tảng urê hóa lỏng thay cho công nghệ sản xuất NPK một hạt trên cơ sở SA, giúp tăng hàm lượng đạm cũng như hàm lượng dinh dưỡng tổng, sản phẩm dễ tan và tan nhanh hơn, đồng thời chi phí sản xuất và giá thành giảm hơn so với sản phẩm từ SA; Công ty CP Hóa chất Việt Trì ứng dụng công nghệ điện phân xút - clo màng trao đổi ion để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao (NaOH > 32%, HCl < 40 ppm), giảm định mức tiêu hao nguyên nhiên liệu, đảm bảo môi trường, đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Ngoài ra, một số lĩnh vực công nghệ cao khác cũng được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất hóa chất, như công nghệ điều khiển tự động, công nghệ thông tin, tại nhiều công ty như Apatit Việt Nam, DAP-Vinachem, Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc, Hơi Kỹ nghệ Que hàn, Pin ắcquy Miền Nam, ắcquy Tia sáng,
Tuy nguồn kinh phí dành cho nghiên cứu phát triển KH&CN khá khiêm tốn, chỉ chiếm khoảng 0,5% tổng doanh thu, song trong giai đoạn 2011-2015 toàn Tập đoàn đã triển khai thực hiện hàng nghìn đề tài nghiên cứu khoa học, sáng kiến giải pháp kỹ thuật, được áp dụng vào sản xuất kinh doanh trong tất cả các lĩnh vực công nghệ, thiết bị, kinh doanh và quản lý, với giá trị làm lợi mỗi năm hàng chục tỷ đồng, góp phần đảm bảo duy trì sản xuất ổn định, nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, đảm bảo môi trường và an toàn lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Có thể kể đến một số kết quả tiêu biểu trong giai đoạn này là:
Trong lĩnh vực sản xuất phân bón: Công ty CP Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao đã nghiên cứu sử dụng 100% quặng apatit tuyển ẩm không qua sấy để sản xuất supe lân thương phẩm 16-16,5% P2O5 hữu hiệu, nghiên cứu đầu tư cải tạo dây chuyền supe 1 sang sản xuất supe lân theo phương pháp nghiền ướt với công suất 400.000 tấn/ năm, triển khai áp dụng đốt lò bằng nhiên liệu sinh khối thay thế lò đốt dầu FO để sấy NPK, áp dụng giải pháp sử dụng quặng apatit nguyên khai loại 1 vụn vào phối liệu sản xuất phân lân nung chảy hàm lượng cao = 18% P2O5 hữu hiệu, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang New Zealand và Nhật Bản; Công ty CP Phân lân Nung chảy Văn Điển nghiên cứu thành công sử dụng than antraxit nội địa thay cho than cốc nhập ngoại nhằm sử dụng 100% nguyên nhiên liệu trong nước, nghiên cứu cải tiến trắc đồ lò cao sản xuất phân lân nung chảy phù hợp với nhiên liệu than antraxit nội địa nhằm nâng cao năng suất và giảm định mức tiêu hao; Công ty CP Phân bón Bình Điền nghiên cứu và ứng dụng thành công các sản phẩm phân bón chuyên dùng cho từng loại cây, từng vùng canh tác chuyên biệt; Công ty CP Phân bón Miền Nam sản xuất phân hữu cơ khoáng trên cơ sở sử dụng hợp lý các nguồn chất thải của chế biến nông sản, than bùn, và những chủng vi sinh vật được phép sử dụng; Công ty CP Phân lân Ninh Bình sản xuất phân lân nung chảy có P2O3 hữu hiệu 17-18% từ quặng apatit loại II Lào Cai để xuất khẩu và làm nguyên liệu sản xuất NPK chất lượng cao, nghiên cứu sản xuất các loại lân chất lượng cao để xuất khẩu; Công ty TNHH MTV Apatit Việt Nam đã phối hợp với Viện Hóa học Công nghiệp Việt Nam và các tổ chức khoa học công nghệ trong và ngoài nước thực hiện nhiều đề tài lớn trong nghiên cứu nâng cao hiệu quả tuyển nổi quặng apatit, nghiên cứu đổi mới hiện đại hóa công nghệ khai khoáng.
Trong lĩnh vực sản xuất cao su: các công ty đã tích cực nghiên cứu đổi mới công nghệ và thiết bị tại các khâu của quá trình sản xuất, nghiên cứu sản xuất nhiều sản phẩm mới và áp dụng thành công nhiều giải pháp tiết kiệm năng lượng. Điển hình như: Công ty CP Cao su Đà Nẵng đã nghiên cứu ứng dụng có hiệu quả các đề tài Nghiên cứu chế tạo, thi công lắp đặt dây chuyền cán tráng vải mành phục vụ sản xuất lốp bias và lốp xe đạp, xe máy, Nghiên cứu sản xuất các loại màng lắp đặt trong các thiết bị sản xuất sản phẩm lốp ôtô của Công ty; Công ty CP Cao su Sao vàng nghiên cứu công nghệ chế tạo lốp máy bay bơm hơi không săm (đây là một nghiên cứu hoàn toàn mới, chưa có đơn vị hay tổ chức nào sản xuất ở Việt Nam); Công ty CP Cao su Miền Nam nghiên cứu quy trình sản xuất săm xe máy, săm xe công nghiệp bằng cao su butyl (sản phẩm có nhiều đặc tính vượt trội so với sản phẩm làm từ cao su tự nhiên).
Trong lĩnh vực hóa chất cơ bản: Công ty CP Phân bón và Hóa chất Cần Thơ đã nghiên cứu thành công ứng dụng công nghệ sản xuất sản phẩm Zeolit 4A có độ tinh khiết 99% dùng trong lĩnh vực sản xuất chất tẩy rửa, nuôi trồng thủy sản, hóa mỹ phẩm, xúc tác công nghiệp (Công trình này đã được trao Giải nhất Giải thưởng Sáng tạo khoa học và công nghệ Việt Nam VIFOTEC năm 2012); Công ty CP Hóa chất Cơ bản Miền Nam nghiên cứu đề xuất giải pháp công nghệ, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhiệt thừa từ dây chuyền axit sunphuric cho các dây chuyền sản xuất khác tại Công ty; Công ty CP Hóa chất Cơ bản Miền Nam và Công ty CP Hóa chất Việt trì đã nghiên cứu, sản xuất sản phẩm PAC mới có chất lượng cao, giá thành hạ có thể cạnh tranh với sản phẩm PAC nhập khẩu từ Trung Quốc.
Trong các lĩnh vực sản xuất khác như pin ắcquy, thuốc bảo vệ thực vật, chất tẩy rửa: các công ty đã tập trung nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, nghiên cứu ứng dụng công nghệ tiên tiến để gia công các dạng sản phẩm mới với tiêu chí an toàn, sạch, thân thiện với môi trường.
Có thể nói rằng, hoạt động nghiên cứu khoa học, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật đã góp phần quan trọng vào việc ổn định sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe của người lao động. Thông qua đó, đã nâng cao trình độ cho đội ngũ khoa học kỹ thuật và góp phần quan trọng vào việc đào tạo nhân lực chất lượng cao tại các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn.
Từ nhiều năm qua, các công trình khoa học được ứng dụng đem lại hiệu quả cao đã phát huy sức mạnh lan tỏa, tạo nên phong trào thi đua lao động sáng tạo trong công tác KH&CN của Tập đoàn. Nhiều công trình đã nhận được các giải thưởng cao quý về lĩnh vực khoa học công nghệ. Chỉ tính đến hết năm 2015, toàn Tập đoàn đã có 01 sáng chế quốc tế và nhiều sáng chế, giải pháp hữu ích được đăng ký bảo hộ trong nước, Tập đoàn đã vinh dự được nhận 17 Giải thưởng Sáng tạo khoa học và công nghệ VIFOTEC, trong có có 07 giải nhất, 04 giải nhì, 05 giải ba và 01 giải khuyến khích; 02 giải thưởng của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO); 01 giải Kovalevskaia cho nhà khoa học nữ; nhiều Cúp vàng Techmart Việt Nam; nhiều cờ thi đua, bằng khen của Chính phủ, Bộ Công thương về thành tích nghiên cứu khoa học công nghệ.
Bên cạnh việc tăng cường đầu tư chiều sâu, đầu tư ứng dụng các công nghệ mới, thiết bị nhập khẩu tiên tiến hiện đại và chủ động huy động mọi nguồn lực trong việc nghiên cứu đổi mới công nghệ, Tập đoàn đã chỉ đạo các đơn vị xây dựng tiêu chuẩn cơ sở cho các nguyên liệu và sản phẩm chưa có tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn ngành. Các đơn vị đã hoàn thành việc xây dựng bộ tiêu chuẩn cơ sở cho sản phẩm và công bố tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa theo quy định. Các đơn vị đã chú trọng đầu tư thêm trang thiết bị hiện đại để kiểm tra, giám sát chất lượng sản phẩm, hàng hóa, áp dụng các công cụ cải tiến và kiểm soát chất lượng hiện đại: Nhiều đơn vị đã đầu tư xây dựng các trung tâm, phòng thí nghiệm, kiểm tra phân tích đánh giá chất lượng sản phẩm, đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 17025:2005 (Viện Hóa học công nghiệp, Công ty CP Cao su Đà Nẵng, Công ty CP Cao su Miền Nam, ). Thêm vào đó, các đơn vị cũng triển khai vận hành hiệu quả Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001, Hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14001, Hệ thống an toàn sức khỏe nghề nghiệp OHSAS 18000, Nhờ đó đã góp phần đảm bảo chất lượng sản phẩm ổn định, nâng cao năng suất, tiết giảm chi phí và tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nhìn chung, trong những năm qua KH&CN đã thực sự phát huy được vai trò của mình, góp phần quan trọng vào ổn định sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại các đơn vị của Tập đoàn. Trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng sâu rộng; sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ngày càng trở nên quyết liệt, trong thời gian tới việc đổi mới KH&CN để đảm bảo cho sự phát triển bền vững là một nhu cầu cấp bách, đòi hỏi Tập đoàn phải tập trung và tranh thủ mọi nguồn lực đầu tư cho KH&CN, đặc biệt là đầu tư phát triển nguồn nhân lực và biến KH&CN thành động lực mạnh mẽ cho sự phát triển bền vững của Tập đoàn. Điều đó đòi hỏi những nhà làm công tác quản trị doanh nghiệp, những người làm công tác KH&CN trong toàn tập đoàn phải nỗ lực nhiều hơn nữa, sáng tạo nhiều hơn nữa để mang lại sức cạnh tranh mới cho các doanh nghiệp, đảm bảo cho Tập đoàn Hóa chất Việt Nam tham gia hiệu quả vào quá trình hội nhập quốc tế, vào cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 đang diễn ra hiện nay.