Những chuyển biến của ngành sản xuất phân bón Trung Quốc trong thời gian qua

09:25 SA @ Thứ Sáu - 15 tháng 3, 2019

Là một đất nước với diện tích lớn thứ tư và dân số lớn nhất thế giới, Trung Quốc cũng là một trong những quốc gia đi đầu trong sản xuất nông nghiệp. Theo số liệu của Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD), năm 2017 Trung Quốc đã thu hoạch 215 triệu tấn ngô (chiếm 20% sản lượng toàn cầu), 141 triệu tấn gạo (27% sản lượng toàn cầu) và 127 triệu tấn lúa mì.

Đáng chú ý là sản lượng 3 loại lương thực chính nói trên của Trung Quốc đáp ứng gần hết nhu cầu trong nước, tổng khối lượng nhập khẩu chỉ dưới 10 triệu tấn. Các cơ quan trung ương và địa phương đề ra kế hoạch sản xuất lương thực hàng năm với mục tiêu giảm sự phụ thuộc vào các nguồn nhập khẩu từ nước ngoài. Tuy nhiên, cũng có một số mặt hàng nông nghiệp là những trường hợp ngoại lệ. Ví dụ, năm 2017 Trung Quốc tiêu thụ 108 triệu tấn đậu nành (cả trong lĩnh vực lương thực và thức ăn gia súc), nhưng phải nhập khẩu 93 triệu tấn để đáp ứng nhu cầu. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng mất cân đối cung cầu về đậu nành là năng suất thu hoạch thấp. Năng suất đậu nành của Trung Quốc chỉ đạt 1,8 tấn/ha, trong khi đó Mỹ đạt trung bình 3,2 tấn/ha. Rõ ràng là ở đây Trung Quốc có thể và cần phải cải tiến để đạt được năng suất cao hơn.

Tuy năng suất thu hoạch trong nông nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như thời tiết, giống và nguồn cấp nước tưới, nhưng phân bón cũng đóng một vai trò lớn. Trung Quốc đã nhận thức rõ điều này, vì vậy đang tiến hành chuyển đổi ngành sản xuất phân bón một cách toàn diện. Những kết quả đạt được ban đầu đã mang lại những tác động cơ bản đối với cả thị trường trong nước cũng như thị trường thế giới.

Phân đạm

Năm 2016 Trung Quốc đã sản xuất 46 triệu tấn amoniăc. Phần lớn lượng sản phẩm này được chuyển hóa thành urê và amoni nitrat (AN). Tuy xuất khẩu urê năm 2015 đạt 13,8 triệu tấn nhưng sau đó đã giảm mạnh do tác động kết hợp của giá than nguyên liệu cao, các chính sách bảo vệ môi trường chặt chẽ hơn và định hướng của chính phủ tập trung cho tiêu thụ trong nước. ước tính, năm 2017 Trung Quốc xuất khẩu chưa đến 5 triệu tấn urê, tỷ lệ vận hành công suất của các nhà máy urê giảm xuống dưới 60%.

Hiệp hội Phân đạm Trung Quốc (CNFA) dự báo đến năm 2020 các công ty thành viên của Hiệp hội này có thể sẽ ngừng vận hành các dây chuyền sản xuất urê cũ với tổng công suất đến 13 triệu tấn. Trong khi đó, một số nhà máy mới đã được xây dựng và đưa vào vận hành. Ví dụ, Công ty Jinaki Yanhau (tỉnh Hà Nam) đã ngừng vận hành 200.000 tấn urê/ năm ở các nhà máy hoạt động kém hiệu quả, nhưng đang đưa vào vận hành nhà máy mới với công suất 600.000 tấn/ năm.

Hiện tại, nhập khẩu amoniăc của Trung Quốc đang tăng mạnh. Tình trạng thiếu hụt khí thiên nhiên và giá than antraxit tăng cao đã đẩy giá amoniăc nội địa lên đến 468 USD/ tấn FAC tại Hồ Bắc, tạo ra chênh lệch đến 148 USD so với giá amoniăc thương mại. Do đó, theo ước tính Trung Quốc có thể đã nhập khẩu khoảng 1 triệu tấn amoniăc trong năm 2018, tăng gấp đôi so với năm trước.

Nguồn cung khí thiên nhiên

Khả năng của Trung Quốc thay thế các nhà máy phân đạm cũ bằng những nhà máy mới, hiệu quả hơn, sẽ phụ thuộc vào cung cầu khí thiên nhiên trong nước. Chính sách môi trường của chính phủ hiện đang hỗ trợ việc thay thế than bằng khí thiên nhiên cho các mục đích sưởi và sử dụng công nghiệp.

Trung Quốc phải dựa vào nhập khẩu để đáp ứng 40% nhu cầu khí thiên nhiên trong nước. Trong mùa đông rét lạnh 2017-2018, tình trạng thiếu khí thiên nhiên ở phía bắc đã dẫn đến nhu cầu mua khí thiên nhiên hóa lỏng tăng cao, kéo theo giá khí thiên nhiên trên thế giới lên đến mức cao nhất 3 năm là 11 USD/ triệu BTU.

Theo dự báo, tình hình thiếu khí thiên nhiên của Trung Quốc sẽ không được cải thiện trong ngắn hạn. Mới đây, Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) tính toán nhu cầu khí thiên nhiên của Trung Quốc sẽ tăng gấp đôi, từ 210 tỷ m3 năm 2016 lên 400 tỷ m3 năm 2040. Bộ Năng lượng Trung Quốc cũng thông báo nhu cầu khí thiên nhiên trong nước đã tăng 17% trong quý I/2018. Hiện nay, khí thiên nhiên chiếm 6% trong tiêu thụ năng lượng của cả nước, mục tiêu của chính phủ là tăng tỷ lệ này lên 10% vào năm 2020 bằng cách tăng cường nhập khẩu và gia tăng sản lượng nội địa.

Tháng 8/2018, chủ tịch Tập Cận Bình đã yêu cầu các tập đoàn năng lượng của Trung Quốc đẩy mạnh khai thác và cung ứng khí thiên nhiên. Tuy nhiên, trên thực tế nguồn cung khí trong nước được dự báo sẽ khó theo kịp với nhu cầu ngày càng tăng.

Hơn nữa, trong bối cảnh chiến tranh thương mại với Mỹ hiện nay, nguồn nhập khẩu khí thiên nhiên vào Trung Quốc từ nước ngoài có thể nhanh chóng bị thắt chặt.

Một nhà phân tích thị trường phân bón cho rằng, trong khi Trung Quốc ngày càng phụ thuộc vào khí thiên nhiên nhập khẩu thì chính phủ nước này sẽ khó có khả năng hỗ trợ phát triển sản xuất urê với mục đích xuất khẩu dựa trên nguyên liệu khí thiên nhiên. Vì vậy, về dài hạn triển vọng tăng giá phân đạm của các nhà sản xuất Trung Đông và Bắc Mỹ sẽ ngày càng lớn.

Phân lân

Đất nông nghiệp Trung Quốc hiện đang thiếu lân. Một số thập niên trước, chính phủ trung ương đã hỗ trợ phát triển nguồn cung phân lân nội địa. Sản lượng axit phốtphoric tăng từ khoảng 3 triệu tấn trong năm 2000 lên 18 triệu tấn năm 2016, chiếm gần 45% sản lượng toàn cầu. Do đó, Trung Quốc đã trở thành nước xuất khẩu quy mô lớn các sản phẩm phốtphat hoàn thiện. Theo Integer Research, năm 2015 thế giới sản xuất tổng cộng gần 36 triệu tấn MAP, trong đó Trung Quốc chiếm một nửa, Mỹ 12 % và ấn Độ 10%.

Theo báo cáo tháng 3/2018 của tạp chí World Fertilizer, phần lớn các cơ sở sản xuất phân lân của Trung Quốc nằm ở 4 tỉnh: Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Quý Châu và Vân Nam, gần các nguồn quặng phốtphat ở miền nam. Hồ Bắc có công suất phân bón lớn nhất, chiếm khoảng 28% tổng sản lượng cả nước, tiếp theo là Vân Nam và Quý Châu với 26% và 23% tương ứng.

Một số nhà sản xuất phân lân nội địa của Trung Quốc có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường xuất khẩu, nhưng một số nhà sản xuất khác đang vất vả chiến đấu để tồn tại. Những nhà sản xuất không tự chủ 100% về nguồn quặng và không có nguồn cung lưu huỳnh/amoniăc ổn định thì đang phải hoạt động trong tình trạng ngày càng không có lợi nhuận.

Nhiều công ty xuất khẩu phân lân Trung Quốc đã phải hoạt động với lợi nhuận rất mỏng, một số bắt buộc phải cắt giảm sản xuất, trong khi đó một số khác tiếp tục vận hành với lợi nhuận bằng 0 để duy trì công ăn việc làm cho người lao động và tránh những tác động bất lợi về kinh tế xã hội. Xuất khẩu phân lân của Trung Quốc vẫn đạt mức tương đối cao, khoảng 6 triệu tấn trong các năm 2016 và 2017, mặc dù môi trường thị trường suy yếu.

Mới đây, để cải thiện môi trường chính phủ Trung Quốc đã quyết định đóng cửa các nhà máy phân lân cũ gây ô nhiễm nặng. Theo Hiệp hội Công nghiệp phốtphat Trung Quốc, khoảng 3 triệu tấn công suất P2O5 sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn trong thời gian 2015-2020. Xuất khẩu phân lân của Trung Quốc dự kiến sẽ giảm, được bù đắp lại trên thị trường quốc tế nhờ những nhà máy tích hợp mới của các nước Trung Đông và Bắc Mỹ.

Phân kali

Theo Cục Khảo sát địa lý Mỹ, năm 2017 Trung Quốc là nước sản xuất phân kali lớn thứ tư trên thế giới, đạt sản lượng 6,2 triệu tấn, đứng sau Canađa (12 triệu tấn), Nga (7,2 triệu tấn) và Belarus (6,4 triệu tấn).

Nhu cầu phân kali tại Trung Quốc được dự báo sẽ tăng đáng kể trong những năm tới. Những khảo sát gần đây về thực trạng đất nông nghiệp cho thấy tình trạng thiếu kali khá lớn, nhu cầu bổ sung kali ở một số khu vực được đánh giá là khẩn cấp.

Giữa năm 2018, Công ty SDIC Mining Investment của Trung Quốc đã đồng ý trả cho Công ty Nutrien 502 triệu USD để tiếp nhận 28% cổ phần tại Công ty Arab Potash của Gioocđani, qua đó đã trở thành cổ đông đa số trong Công ty này. Arab Potash là nhà sản xuất phân kali lớn thứ tám trên thế giới và đang vận hành những cơ sở khai thác quặng ngầm quy mô lớn gần Biển Chết. Thương vụ nói trên sẽ giúp giảm tiếp sự phụ thuộc của Trung Quốc vào phân kali nhập khẩu và đảm bảo cho an ninh lương thực trong nước.

Giữa năm 2018, Trung Quốc và ấn Độ đã ký thỏa thuận nhập MOP dài hạn từ Belarus. Hiện tại, đầu cơ đã đẩy giá MOP lên 300 USD/tấn dựa trên cơ sở lượng hàng tồn kho của ấn Độ khá thấp và nhu cầu ổn định từ các nước khác như Braxin.

Tháng 8/2018, Công ty IPL của ấn Độ đã ký hợp đồng nhập MOP từ Belarus với giá 322 USD/tấn CFR, tăng 35% so với năm trước. Trung Quốc cũng ký hợp đồng nhập khẩu với giá như vậy trong tháng 9, tức là tăng 60 USD so với năm 2017.

Các luật bảo vệ môi trường và thuế

Tháng 1/2015, Trung Quốc đã ban hành Luật bảo vệ môi trường với những quy định toàn diện và các biện pháp thực thi cụ thể, cho phép phạt hàng ngày các cơ sở vi phạm, tịch thu thiết bị gây ô nhiễm, ra lệnh ngừng sản xuất và giam giữ hành chính, có thể truy tố trong những trường hợp nghiêm trọng.

Theo báo cáo của Đại học Khoa học chính trị và luật Trung Quốc, đến giữa năm 2017 Tổ thanh tra môi trường của Chính phủ trung ương đã kiểm tra một nửa các tỉnh trong nước, kết quả là hơn 1000 cơ sở đã phải chính thức đóng cửa, ở 22.730 trường hợp đã thực hiện một trong những biện pháp trừng phạt nêu trên. Nhiều nhà máy sản xuất công nghiệp và nhiều cơ sở hóa chất đã buộc phải đóng cửa.

Bên cạnh việc thực thi Luật môi trường, từ 1/1/2018 chính phủ Trung Quốc cũng áp đặt thuế môi trường đối với các nhà sản xuất gây ô nhiễm không khí và nước. Thuế này được dự định sẽ kiềm chế các cơ sở vi phạm nặng nhất và sẽ ảnh hưởng đến các nhà sản xuất phân đạm cũng như phân kali. Theo luật thuế mới này, các khu vực trong nước được chia thành các vùng với mức ô nhiễm cao, trung bình và thấp. Ví dụ, các cơ sở sản xuất phân đạm gây ô nhiễm nặng nhất ở Bắc Kinh, Hà Nam và Vân Nam phải chịu mức thuế cao nhất, gần 1 USD/tấn urê, trong khi đó các nhà sản xuất với “lý lịch” tốt sẽ chỉ phải trả khoảng 1/3 mức thuế đó.

Tuy mức thuế môi trường hiện nay còn tương đối thấp nhưng chúng được đưa ra vào thời gian các yếu tố sản xuất khác như chi phí nguyên liệu và năng lượng đang gây áp lực lên các nhà sản xuất nhỏ. Mục đích của chính phủ là đóng cửa các cơ sở vi phạm nặng nhất. Ngoài thuế môi trường của chính phủ trung ương, các tỉnh dự kiến cũng sẽ đưa ra thuế môi trường mới và tăng thuế hiện tại. Chẳng hạn, tỉnh Vân Nam sẽ tăng gấp đôi thuế môi trường trong năm 2019.

Chiến tranh thương mại

Đầu năm 2018, Tổng thống Trump đã áp đặt 34 tỷ USD tiền thuế lên hàng hóa Trung Quốc trong cuộc chiến chống lại thâm hụt thương mại của Mỹ. Đáp trả, Trung Quốc cũng áp đặt 50 tỷ tiền thuế lên các sản phẩm của Mỹ.

Trong cuộc phỏng vấn tháng 8/2018, khi được hỏi về ảnh hưởng của chiến tranh thương mại đối với ngành sản xuất phân bón, giám đốc điều hành Công ty sản xuất phân bón Nutrien của Mỹ đã trả lời: “Tất nhiên, chiến tranh thương mại không tốt cho bất cứ ai. Vấn đề hàng đầu đối với Mỹ là tình trạng tài chính của người nông dân, họ sẽ không thể chịu được một năm với kết quả sản xuất kinh doanh tồi tệ. Hơn nữa, vấn đề đó sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ chuỗi giá trị trong cả nền kinh tế. Không ai biết những việc đó sẽ dẫn đến đâu”.

Triển vọng tương lai

Triển vọng đối với ngành sản xuất phân bón của Trung Quốc (và qua đó là của thế giới) phụ thuộc vào sự can thiệp của chính phủ nước này thông qua các kế hoạch 5 năm và các định hướng vĩ mô. Quyết tâm của Bắc Kinh trong việc đạt tự chủ về sản xuất phân bón là yếu tố then chốt cho sự phát triển của sản xuất phân đạm, phân lân và phân kali nội địa trong 2 thập niên qua.

Sự chi phối của các chính sách môi trường hiện nay trong những ưu tiên của chính phủ Trung Quốc đang dẫn đến quá trình hợp lý hóa các nhà máy sản xuất phân bón cũ trong nước. Kết quả là xuất khẩu phân bón giảm, tạo ra những cơ hội ngắn hạn cho các nhà sản xuất tích hợp với chi phí thấp tại Trung Đông, Bắc Mỹ và Nga.

TN

Theo World Fertilizer, 11/2018