Công nghiệp Hóa chất Nhật bản tìm hướng phát triển mới

10:25 SA @ Thứ Tư - 11 Tháng Chín, 2019

Công nghiệp hóa chất (CNHC) là ngành công nghiệp lớn thứ hai của Nhật Bản (sau giao thông vận tải). Ngành sản xuất hóa chất tạo ra hơn 14% tổng giá trị sản lượng trong nước và sử dụng 860.000 nhân công, tương đương 12% lực lượng lao động công nghiệp trong nước. Hai lĩnh vực chủ yếu của ngành là hóa chất hữu cơ (42%) và các sản phẩm hoàn thiện (49,9%). Bên cạnh đó, phân bón và hóa chất vô cơ chiếm 8,2%.

Ngành sản xuất hóa chất hữu cơ tại Nhật Bản bao gồm các hợp chất hóa dầu cơ bản (9,4%), các hợp chất béo (4,8%), các hợp chất vòng, thuốc nhuộm và bột màu (7,5%), chất dẻo (12,7%), cao su tổng hợp (2%).

Các sản phẩm hoàn thiện gồm có dầu mỡ, xà phòng, chất tẩy rửa và chất hoạt động bề mặt (3,9%), sơn (3,5%), dược phẩm (27,8%), các sản phẩm nông hóa (1,1%), mỹ phẩm và thuốc đánh răng (4,8%),...

Xét về mọi tiêu chí, CNHC Nhật Bản đóng vai trò lớn trong công nghiệp hóa chất toàn cầu. Năm 2017, 5 công ty hóa chất Nhật Bản được xếp hạng trong số 30 công ty hóa chất hàng đầu thế giới tính theo doanh thu: Mitsubishi Chemical (23,4 tỷ USD), Toray Industries (15,5 tỷ USD), Sumitomo Chemical (13,4 tỷ USD), Mitsui Chemical (11,6 tỷ USD) và Shin-Etsu Chemical (9,8 tỷ USD).

Tính theo doanh thu trên toàn cầu, CNHC Nhật Bản đứng thứ 4, sau Trung Quốc, Mỹ và EU.

Mặc dù vậy, ngày nay CNHC Nhật Bản đang đứng trước nhiều thách thức lớn, tương tự công nghiệp hóa chất ở một số khu vực phát triển trên thế giới như EU.

Những thách thức về tăng trưởng

Thách thức trước tiên là tình trạng suy giảm dân số và sự tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế Nhật Bản.

Dân số Nhật Bản đã đạt mức cao nhất (128 triệu người) vào năm 2008, sau đó liên tục giảm trong nhiều năm. Xu hướng này được dự kiến sẽ tiếp tục trong 4 thập niên tới. Theo những dự báo mới nhất, dân số Nhật Bản sẽ giảm xuống 108 triệu người vào năm 2040 và giảm tiếp xuống chỉ còn 88 triệu người năm 2060. Sự suy giảm dân số như vậy sẽ làm giảm cơ hội mở rộng hữu cơ đối với các công ty Nhật Bản trên thị trường nội địa đã bão hòa.

Những dự báo vừa qua của chính phủ cũng cho thấy, tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản sẽ duy trì ở mức thấp (0,9%/năm) trong tối thiểu một thập niên tới.

Bên cạnh những xu hướng vĩ mô như trên, CNHC Nhật Bản còn phải đối phó với những thách thức nghiêm trọng từ nước ngoài. Theo truyền thống, từ trước đến nay Trung Quốc vẫn là thị trường lớn cho etylen và các sản phẩm từ etylen của Nhật Bản. Nhưng ngày nay các nhà sản xuất hóa chất Nhật Bản đang phải đứng trước cạnh tranh gay gắt từ phía các nhà sản xuất etylen của Mỹ đang được hưởng lợi nhờ cuộc cách mạng khí đá phiến ở Bắc Mỹ, cũng như từ phía các nhà sản xuất Trung Đông với ưu thế của nguồn nguyên liệu giá rẻ. Trung Quốc cũng dựa ngày càng nhiều hơn vào ngành sản xuất hóa chất nội địa, sử dụng than làm nguyên liệu chính, vì vậy đang giảm nhập khẩu từ các công ty hóa chất Nhật Bản. Hơn nữa, các biện pháp thanh tra môi trường trong nhiều ngành công nghiệp thời gian qua tại Trung Quốc đã dẫn đến việc đóng cửa nhiều nhà máy và giảm nhu cầu đối với các hóa chất. Xu hướng này dự kiến sẽ tiếp diễn trong thời gian tới.

Trong 5 năm qua, CNHC Nhật Bản đã tinh giảm khoảng 10% quy mô các nhà máy nhằm giúp các công ty duy trì năng lực cạnh tranh. Mặc dù vậy, sản lượng etylen tại đây có thể giảm xuống 4,7 triệu tấn vào năm 2020 do áp lực của nguồn cung etylen giá rẻ ở nước ngoài và nhu cầu trong nước liên tục giảm. Trong bối cảnh đó, công suất etylen dư thừa trong nước có thể lên đến 1,7 triệu tấn/năm vào năm 2020.

Tìm kiếm phương hướng mới

Để giải quyết những thách thức nói trên, các công ty hóa chất Nhật Bản đang tìm cách gia tăng thị phần bằng cách tham gia những thị trường mới, bán tài sản hoặc mở rộng ra những khu vực tăng trưởng mới. Chỉ dựa trên hoạt động nghiên cứu và triển khai trong nước cũng như sự tăng trưởng hữu cơ trên thị trường nội địa sẽ không đủ để đạt được các mục tiêu tăng trưởng. Vì lý do đó, nhiều công ty đang tìm cách gia tăng các nỗ lực mua bán sát nhập cũng như các hoạt động ở nước ngoài.

Các công ty Nhật Bản thường không có truyền thống hỗ trợ mạnh xu hướng mua bán sát nhập. Việc đưa ra quyết định dựa trên đồng thuận đã trở thành chuẩn mực đối với nhiều công ty, dẫn đến phương thức thận trọng trong mở rộng hoạt động. Cách làm này đôi khi xung đột với tốc độ phát triển nhanh đang trở thành yêu cầu ngày càng mạnh trên thị trường toàn cầu ngày nay.

Cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, công nghiệp hóa chất châu Âu đã có khả năng duy trì năng lực cạnh tranh một phần lớn là nhờ các hoạt động củng cố sát nhập và chuyên môn hóa. Ngày nay, khả năng thực hiện các biện pháp củng cố sát nhập ở cấp độ tương tự đối với CNHC Nhật Bản khá hạn chế. Các nhà máy crăcking etylen tại Nhật Bản không tập trung ở một khu vực riêng rẽ mà trải rộng trên khắp đất nước, mỗi nhà máy lại được chia sẻ giữa nhiều công ty khác nhau. Hơn nữa, củng cố sát nhập cũng là giải pháp khó áp dụng trong bối cảnh thái độ chống đối các vụ sát nhập lớn bất cứ loại nào tại Nhật Bản.

Trên thực tế, nhiều thập niên qua đã không diễn ra vụ sát nhập lớn nào trong CNHC Nhật Bản. Hiện tại, CNHC Nhật Bản vẫn nằm trong tình trạng phân mảnh cao, mặc dù nhiều công ty đã phát triển thành công trên những thị trường ngách đòi hỏi các sản phẩm chuyên dụng.

Tuy nhiên, thái độ của các công ty Nhật Bản ngày nay đối với hoạt động mua bán sát nhập đang thay đổi chậm nhưng chắc chắn. ít nhất thì nhiều nhà lãnh đạo các công ty lớn đã nhận thấy nhu cầu phải thay đổi. Họ đề cập đến tầm quan trọng của phương thức kinh doanh theo kiểu phương Tây, dựa trên thái độ coi khách hàng là trên hết, thay đổi quyết định nhanh hơn, linh hoạt hơn trong việc đàm phán với các nhà cung ứng và hiểu biết tốt hơn thị trường cũng như quy định pháp lý ở các nước khác.

Triển vọng phát triển

Với cái nhìn tích cực hơn về các hoạt động mua bán sát nhập, các công ty Nhật Bản có thể được hưởng lợi nhờ những lợi thế về nguồn vốn vay giá rẻ. Chi phí vay vốn trong nước hiện duy trì ở mức thấp, lãi suất gần bằng 0. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã áp dụng nhiều chính sách nới lỏng tín dụng với mục tiêu giảm chi phí vay vốn cho các công ty trong nước nhằm khuyến khích mở rộng đầu tư. Ngoài ra, chính phủ Nhật Bản đã đưa ra nhiều sáng kiến và chính sách nhằm hỗ trợ các kế hoạch đầu tư chiến lược cả ở trong nước và ở nước ngoài. Ngân hàng Đầu tư Nhật Bản (DBJ) đang cung cấp nhiều dịch vụ tài chính như cấp vốn, hợp tác đầu tư và tư vấn để giúp các công ty Nhật Bản mở rộng hoạt động và đạt được các mục tiêu chiến lược, ví dụ thâu tóm các công ty ở nước ngoài.

Nhìn chung, đồng yên mạnh lên trong năm 2018 là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm lợi nhuận ở nước ngoài của CNHC Nhật Bản. Trong khi đó, dòng sản phẩm hóa chất dựa trên nguyên liệu khí đá phiến giá rẻ đang tràn vào châu á và cùng với chi phí nguyên liệu tăng tạo ra áp lực cạnh tranh rất lớn đối với các công ty hóa chất Nhật Bản.

Tuy nhiên, có thể dự báo xu hướng mua bán sát nhập mức độ cao sẽ diễn ra ở một số nhà sản xuất hóa chất Nhật Bản. Trong các kế hoạch kinh doanh trung hạn của mình, nhiều công ty hóa chất tại đây đang xem xét mua bán sát nhập như một chiến thuật quan trọng để đạt được tăng trưởng và nâng cao giá trị doanh nghiệp. Các công ty như vậy có khả năng sẽ tiếp tục tìm kiếm các đích mua bán sát nhập tiềm năng, phù hợp với xu hướng phát triển trong quá khứ gần đây.

Đối với CNHC Nhật Bản, những thay đổi tiếp theo sẽ là cần thiết để duy trì năng lực cạnh tranh trên sân chơi toàn cầu, trong bối cảnh ngành sản xuất hóa chất trên thế giới ngày càng có tính cạnh tranh mạnh dựa trên công nghệ cao. Nếu có thể phá vỡ những định kiến từ nhiều thập niên qua đối với xu hướng củng cố sát nhập, các công ty hóa chất Nhật Bản có thể thành công trong việc chuyển đổi, xây dựng năng lực cạnh tranh cao, tương tự những gì mà CNHC châu Âu đã đạt được trong vài thập niên trước đây.

HS

Theo Chemistry World, 9/2018