Cung cầu sít sao trên thị trường phân lân và phân Kali toàn cầu

01:41 CH @ Thứ Sáu - 25 tháng 10, 2019

Giá phân lân và phân kali trên thị trường toàn cầu đã tăng mạnh trong năm 2017. Những yếu tố hỗ trợ xu hướng tăng giá này vẫn tiếp tục duy trì cho đến cuối năm 2018: Lượng giao hàng các sản phẩm lân và kali hàng đầu đạt mức cao kỷ lục, trong khi đó sản lượng của các dự án mới với nhiều kỳ vọng đã thấp hơn dự kiến, đồng thời giá nguyên liệu tăng cũng tạo thêm động lực bổ sung cho giá phân lân.

Sau khi động lực tăng giá vào quý IV/2018 chậm lại, thậm chí giá phân lân đã giảm nhẹ, nhiều chuyên gia đã ra đặt câu hỏi: Liệu xu hướng vĩ mô trong năm 2018 có dẫn đến việc tăng giá được duy trì trong năm 2019 hay sẽ xảy ra những thay đổi cơ bản?

Cho đến nay, tình hình cung cầu đang cho thấy thị trường phân lân và phân kali tương đối cân bằng. Đây là tình hình đã giúp giữ vững xu hướng tăng giá trong năm 2018, với một số ít rủi ro giảm giá (ngoại trừ các dao động mùa vụ thông thường). Một số yếu tố như xu hướng giá nông sản, tốc độ đưa vào vận hành các nhà máy mới và nguồn cung xuất khẩu phân lân của Trung Quốc sẽ định hình triển vọng thị trường trong thời gian tới.

Cung cầu phân lân

Giá DAP tại New Orleans (Mỹ) đã tăng từ khoảng 360 USD/tấn đầu năm 2018 lên khoảng 420 USD/tấn vào mùa thu, sau đó giảm nhẹ xuống 385 USD/tấn vào cuối năm. Có thể nói, xu hướng giảm giá trong quý IV/2018 là xu hướng giảm giá điển hình theo mùa vụ, nhưng cũng chịu ảnh hưởng nặng hơn của tỷ lệ sử dụng phân bón thấp ở Bắc Mỹ do thời tiết bất lợi làm chậm tiến trình thu hoạch và công việc làm đồng mùa thu. Hơn nữa, xuất khẩu phân lân của Trung Quốc quý IV/2018 đã vượt dự báo, làm tăng thêm nguồn cung trên toàn cầu.

Chênh lệch giữa giá DAP và chi phí lưu huỳnh + amoniăc trên mỗi tấn DAP cũng tăng trong năm 2018, từ 225 USD/tấn đầu năm lên đến 275 USD/tấn vào quý III và 250 USD/tấn cuối năm. Mức 250 USD/tấn là ngưỡng quan trọng, vì nhiều nhà phân tích thị trường cho rằng đây là mức tối thiểu để sản xuất phân lân toàn cầu có thể bền vững về mặt kinh tế. Những quyết định ngừng vận hành hoặc đóng cửa các nhà máy phân lân những năm gần đây đã được đưa ra khi mức chênh lệch trên duy trì trong khoảng 200-225 USD/tấn vào phần lớn thời gian các năm 2016 và 2017.

Động lực cơ bản cho sự hồi phục của giá phân lân và biên lợi nhuận trong sản xuất phân lân năm 2018 là cân bằng cung cầu tương đối sít sao.

Về mặt nhu cầu, tăng trưởng nhu cầu trên toàn cầu vẫn duy trì ổn định mặc dù nhu cầu của Trung Quốc tiếp tục giảm. Sau khi tăng với tốc độ trung bình hàng năm 1,5% trong thời gian 2010-2015, lượng giao hàng các sản phẩm phân lân hàng đầu (DAP, MAP, NPS và TSP) đã tăng khoảng 2%/năm trong 3 năm qua, đạt 70 triệu tấn vào năm 2018. Xu hướng tăng này đã diễn ra mặc dù nhu cầu tại Trung Quốc - thị trường phân lân lớn nhất thế giới - đã giảm hơn 5%/năm trong thời gian 2010-2018, tức là giảm tổng cộng 3 triệu tấn. Bù trừ cho sự suy giảm nhu cầu của Trung Quốc là sự gia tăng nhu cầu ở nhiều thị trường khác trên thế giới, đáng chú ý nhất là tại các khu vực khác của châu á và tại châu Mỹ La tinh.

Về mặt nguồn cung, trên thực tế đã có hai điều chỉnh giảm đáng kể so với năm trước. Trước tiên, việc ngừng vận hành nhà máy của Công ty Mosaic tại Florida (Mỹ) vào tháng 12/2017 đã khiến cho nguồn cung toàn cầu năm 2018 thiếu hụt khoảng 1,3 triệu tấn so với năm 2017. Thị trường chờ đợi việc đưa vào vận hành các nhà máy mới tại Marốc và Arập Xê-út sẽ bù trừ cho sự thiếu hụt nguồn cung này và đáp ứng sự tăng trưởng mới của nhu cầu. Nhưng các nhà máy đã được đưa vào vận hành chậm hơn nhiều so với kế hoạch, sản lượng dự kiến sẽ giảm hơn 1 triệu tấn so với kế hoạch. Trường hợp được nói đến nhiều nhất là nhà máy liên doanh của Công ty Ma’aden Wa’ad tại Arập Xê-út. Nhà máy công suất 3 triệu tấn/năm này được đưa vào vận hành giữa năm 2017 và đạt sản lượng dưới 500.000 tấn cho đến cuối năm. Phần lớn các nhà phân tích đã dự báo nhà máy sẽ đạt sản lượng 2,0 - 2,5 triệu tấn trong năm 2018, nhưng sản lượng thực tế chỉ đạt chưa đến 1,5 triệu tấn. Sự thiếu hụt sản lượng này đã được đáp ứng bằng nhập khẩu gia tăng từ ấn Độ, qua đó hỗ trợ tăng giá phân lân trong 3 quý đầu năm 2018, đồng thời hỗ trợ sự hồi phục của xuất khẩu phân lân Trung Quốc mà nếu không có tác động như vậy thì nhiều khả năng sẽ giảm do thuế môi trường mới và các quy định mới làm tăng chi phí sản xuất.

áp lực của chi phí nguyên liệu cũng hỗ trợ cho sự tăng giá phân lân. Giá lưu huỳnh tại cảng Tampa (Florida, Mỹ) đã tăng từ trung bình 82 USD/tấn năm 2017 lên 123 USD/tấn năm 2018. Mức tăng 41 USD này khiến cho chi phí sản xuất DAP tăng khoảng 15 USD/tấn. Giá amoniăc toàn cầu cũng cao hơn so với năm trước, tăng khoảng 32 USD/tấn, dẫn đến chi phí sản xuất DAP tăng khoảng 6 USD/tấn.

Triển vọng nhu cầu phân lân vẫn ổn định nhờ nông nghiệp toàn cầu phát triển ổn định và người nông dân cần bổ sung chất dinh dưỡng cho đất sau những vụ mùa thu hoạch kỷ lục thời gian gần đây.

Theo dự báo của các chuyên gia thị trường, giao hàng phân lân toàn cầu sẽ tăng khoảng 1,2 triệu tấn, đạt khoảng 71 triệu tấn trong năm 2019. Lượng giao hàng phân lân tại các nước khác ở châu á (ngoài Trung Quốc và ấn Độ) cũng như tại Braxin và các nước châu Mỹ La tinh khác dự kiến sẽ tăng. Lượng giao hàng phân lân tại Bắc Mỹ có khả năng sẽ không thay đổi, đạt khoảng 10 triệu tấn.

Như vậy, nhìn chung cung cầu trên thị trường phân lân tương đối cân bằng với giả thiết là tăng trưởng nhu cầu tiếp tục duy trì ổn định. Lượng giao hàng dự kiến sẽ tăng thêm trên 1 triệu tấn trong năm 2019. Nếu không có thay đổi trong xuất khẩu của Trung Quốc, mức tăng ròng của nguồn cung phân lân sẽ đạt khoảng 1,5 triệu tấn. Với dự báo tăng trưởng nhu cầu ở mức vừa phải, nguồn cung trên thị trường sẽ dư thừa nhẹ so với năm trước. Nhưng xuất khẩu phân lân của Trung Quốc đã tăng khoảng 1 triệu tấn trong năm 2018, đạt trên 11 triệu tấn. Vì vậy, khối lượng xuất khẩu của nước này có khả năng sẽ chỉ tăng nhẹ trong năm 2019 để phục vụ trước tiên cho nhu cầu trong nước.

Cung cầu phân kali

Giá bán buôn MOP tại thị trường New Orleans (Mỹ) bắt đầu năm 2018 ở mức 235 USD/tấn FOB, sau đó liên tục tăng và đạt mức gần 300 USD/tấn FOB vào cuối năm. Tuy mức tăng giá 65 USD/tấn như vậy tại Mỹ có vẻ cao, nhưng trên thực tế vẫn thấp hơn các thị trường khác trên thế giới. Ví dụ, giá MOB tại Braxin vào cuối năm 2018 đạt khoảng 320 USD/tấn sau khi đã tăng tương tự trong năm.

Tình hình cung cầu sít sao đã thúc đẩy xu hướng tăng giá phân kali trên toàn cầu. Tuy lượng giao hàng MOP đã tăng mạnh trong năm 2017 (tăng 5 triệu tấn hoặc 8% so với năm trước), khiến cho một số nhà phân tích dự báo xu hướng giảm giá trong năm 2018, nhưng trên thực tế lượng giao hàng năm 2018 chỉ tăng nhẹ, đạt khoảng 67 triệu tấn (tăng gần 2%), trong khi nhu cầu trên hầu hết các thị trường khu vực trên thế giới đã giữ nguyên hoặc tăng cao hơn. Về mặt sản lượng, tốc độ đưa vào vận hành các dự án mới tại Canađa, Thổ Nhĩ Kỳ và Turkmenistan đã thấp hơn dự báo của thị trường.

Đầu năm 2018, Công ty K+S (Đức) dự báo nhà máy của Công ty tại Bethune ở nam Saskatchewan (Canađa) sẽ sản xuất 1,7 triệu tấn KCl trong năm 2018. Nhưng trên thực tế, sản lượng của nhà máy này thấp hơn dự báo khoảng nửa triệu tấn. Nay Công ty K+S dự báo nhà máy sẽ sản xuất 1,7 đến 1,9 triệu tấn KCl trong năm 2019.

Tại Turkmenistan, nhà máy Garlyk tại đây được dự báo sẽ sản xuất hơn 700.000 tấn/ năm trong năm 2018, nhưng sản lượng thực tế không vượt quá 50.000 tấn/ năm (sản lượng 3 quý đầu năm 2018 chỉ đạt 24.000 tấn).

Tại Nga, Công ty EuroChem tiếp tục triển khai 2 dự án quy mô thế giới - nhà máy Usolskiy tại vùng Perm và dự án Volgakaliy tại vùng Volgograd, miền Nam nước Nga. Tổng cộng, hai nhà máy này đạt sản lượng thực tế khoảng 300.000 tấn trong năm 2018. Trước đó, Công ty EuroChem dự báo sẽ đạt sản lượng 500.000 tấn/ năm, một số nhà phân tích còn đưa ra dự báo gần 1 triệu tấn/ năm. Cuối năm 2018, EuroChem dự báo hai nhà máy này sẽ đạt sản lượng 1,1 đến 1,4 triệu tấn trong năm 2019.

Tổng cộng, các nhà máy mới nói trên tại Canađa, Turkmenistan và Nga đã đạt sản lượng năm 2018 thấp hơn 1,5 triệu tấn so với dự báo ban đầu.

Cũng tại Nga, mỏ Solikamsk-2 của Công ty Urakali đã gặp phải các vấn đề về ngập lụt trong năm 2018, ảnh hưởng bất lợi đến sản lượng của mỏ. Trong năm 2019, hoạt động khai thác của mỏ có khả năng sẽ tiếp tục bị gián đoạn vì vấn đề trên.

Nhìn chung, với triển vọng sản lượng của các dự án mới nói trên sẽ được cải thiện mạnh trong năm 2019, đặc biệt là tại Canađa và Nga, triển vọng tăng giá phân kali trong năm 2019 sẽ phụ thuộc vào tăng trưởng nhu cầu để hấp thụ hết những nguồn cung mới.

Theo dự báo của các chuyên gia trên thị trường phân bón thế giới, nhu cầu phân kali sẽ tăng trưởng vừa phải trong năm 2019, do giá tăng trong năm 2018 đã bắt đầu kiềm chế sự tăng trưởng của nhu cầu, đặc biệt là trong môi trường giá nông sản trầm lắng hiện nay. Tại thị trường Mỹ, tồn kho phân bón đầu năm 2019 ở mức cao do lượng tiêu thụ trong vụ mùa thu thấp hơn mức trung bình, nhưng bù lại tồn kho phân bón ở phần lớn các khu vực khác trên thế giới chỉ ở mức trung bình hoặc dưới trung bình. Hơn nữa, mặc dù giá nông sản nhìn chung tiếp tục suy yếu nhưng nhu cầu phân bón vẫn ổn định do người nông dân tìm cách bổ sung các chất dinh dưỡng đã mất đi từ đất sau những vụ thu hoạch kỷ lục gần đây.

Dựa trên tỷ lệ giữa chỉ số giá phân bón và giá nông sản, các chuyên gia dự báo lượng giao hàng MOP toàn cầu sẽ tăng đến 67-69 triệu tấn KCl/ năm.

Tại Bắc Mỹ, dự báo lượng giao hàng MOP sẽ giữ nguyên ở mức 10 triệu tấn như năm 2018. Dự báo này dựa trên giả thiết là trong năm 2019 nông dân Mỹ sẽ gieo trồng khoảng 92-94 triệu mẫu ngô (tăng 3-5 triệu mẫu so với năm trước), 84-86 triệu mẫu đậu nành (giảm 3-5 triệu mẫu) và 48-50 triệu mẫu lúa mì (tăng 0-2 triệu mẫu). Tỷ lệ bón phân dự kiến sẽ giữ nguyên không thay đổi.

Nhu cầu phân kali được dự báo sẽ tiếp tục theo xu hướng đi lên ở những thị trường đã là động lực chính cho sự tăng trưởng nhu cầu những năm gần đây, đặc biệt là Braxin. Tại Braxin, ngành nông nghiệp tiếp tục được hưởng lợi nhờ đồng nội tệ tương đối yếu và những tác động của chiến tranh thương mại giữa Mỹ - Trung đang thúc đẩy nhu cầu đối với các sản phẩm nông nghiệp của nước này. Đi ngược lại xu hướng tăng là những thị trường như ấn Độ, nơi mức trợ cấp tương đối thấp cùng với giá phân kali cao có khả năng sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu thực tế.

Tương tự như phân lân, nhìn chung cân bằng cung cầu trên thị trường phân kali có khả năng sẽ sít sao khi các dự án mới tiếp tục xu hướng đưa vào vận hành chậm. Nhu cầu phân kali được dự báo sẽ tăng khoảng 1 triệu tấn trong năm nay, nguồn cung tăng thêm khoảng 700.000 tấn.

Những yếu tố ảnh hưởng

Theo thông lệ, một trong những yếu tố ảnh hưởng quan trọng đối với thị trường phân bón là giá nông sản. Khu vực Bán cầu Nam có khả năng sẽ lại đạt vụ mùa bội thu trong năm nay, tuy thấp hơn một số dự báo trước đó. Nếu Bán cầu Nam lại đạt sản lượng nông nghiệp cao vào cuối năm 2019, giá nông sản có thể giảm và ảnh hưởng bất lợi đến nhu cầu phân lân cũng như phân kali. Hơn nữa, hiện nay đang có những lo ngại ngày càng tăng là tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng bất lợi trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ-Trung làm giảm nhu cầu đối với hàng hóa nông nghiệp và góp phần giảm giá nông sản.

Tốc độ đưa vào vận hành các nhà máy mới vẫn tiếp tục là một yếu tố ảnh hưởng lớn. Trong năm 2018, các nhà máy phân lân và phân kali mới đã không đáp ứng kỳ vọng của thị trường. Điều đó có thể sẽ lại xảy ra trong năm 2019.

Đối với phân lân, yếu tố tác động lớn nhất là khả năng xuất khẩu của Trung Quốc. Xuất khẩu của Trung Quốc năm 2018 đã cao hơn kỳ vọng nhờ nhu cầu mạnh của ấn Độ và giá cao trên toàn cầu đã bù trừ cho các chính sách môi trường chặt chẽ hơn của chính phủ Trung Quốc, trong khi đó nhu cầu nội địa thấp hơn. Tuy các chính sách mới về môi trường không ngăn cản xuất khẩu phân lân như đã xảy ra đối với xuất khẩu phân đạm, nhưng sản lượng quặng phốtphat đã giảm. Nếu tình trạng giảm khai thác quặng phốtphat tiếp tục trong năm 2019, xuất khẩu phân lân của Trung Quốc khó có thể duy trì ở mức như năm 2018.

TN

Theo World Fertilizer, 2/2019