Thị trường phân Kali trên thế giới và thách thức về nguồn cung trong thời gian tới

01:55 CH @ Thứ Sáu - 25 Tháng Mười, 2019

Tuy giá phân kali cuối năm 2018 đã đạt mức cao nhất trong vòng 3 năm nhờ các hoạt động cắt giảm nguồn cung, nhưng triển vọng thị trường sắp tới sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào xu hướng tăng trưởng công suất trong ngành. Trong bối cảnh đó, các công ty sản xuất phân kali với những nhà máy công suất nhỏ và chi phí cao sẽ phải chịu áp lực lớn về chi phí.

Theo Công ty phân tích thị trường CRU International tại Luân Đôn (Anh), trên thị trường phân kali mọi việc đã bắt đầu thay đổi thực sự kể từ giữa năm 2016. Đó là lúc giá phân kali xuống thấp, dẫn đến nhu cầu tăng cao kỷ lục trên toàn cầu trong năm 2017 tiếp theo.

Tăng trưởng nhu cầu

Khối lượng nhập khẩu phân kali toàn cầu trong năm 2016 đạt tổng cộng 61,4 triệu tấn, sau đó tăng mạnh lên 66,6 triệu tấn vào năm 2017.

Nhập khẩu phân kali vào Mỹ năm 2017 cũng tăng mạnh lên gần 10 triệu tấn. Trong số đó, nhập khẩu từ Canađa là 7,7 triệu tấn, tăng 12% so với năm trước. Nhập khẩu từ các nước khác (chủ yếu là Nga, Belarus và Ixraen) đạt 1,9 triệu tấn, tăng 44%.

Nhu cầu phân kali của ngành nông nghiệp Mỹ năm 2018 tăng tương tự như năm 2017. Trong thời gian 2012-2017, tỷ lệ bón phân kali cho cây ngô tăng 24%, trong khi đó tỷ lệ bón phân kali cho đậu nành tăng 18%.

Tại Ôxtrâylia, doanh số phân kali MOP tăng 9% trong năm 2018, đạt 391.000 tấn - mức cao nhất trong vòng 14 năm qua. Nhiều yếu tố kết hợp đã giúp tăng mạnh tiêu thụ phân kali tại đây. Đó là tình trạng thiếu kali trong đất ở miền Tây Ôxtrâylia và nhận thức ngày càng tăng của người nông dân về ích lợi của phân kali. Hơn nữa, nông dân miền Tây Ôxtrâylia đã đạt sản lượng thu hoạch kỷ lục trong những vụ mùa vừa qua, vì vậy có nguồn tiền dồi dào để đầu tư vào phân bón. Tại bang sản xuất sữa Victoria, giá cỏ tăng cao do ảnh hưởng của thời tiết khô hạn đã khuyến khích người nông dân tăng cường bón phân kali với mục đích phát triển các bãi cỏ chăn nuôi gia súc. Hiện tại, Ôxtrâylia phải nhập khẩu toàn bộ MOP để đáp ứng nhu cầu trong nước.

Theo CRU International, nhu cầu phân kali sẽ tăng trưởng ổn định trong 5 năm tới trên khắp thế giới. ước tính, nhu cầu phân kali toàn cầu năm 2018 đạt khoảng 66,8 triệu tấn. Đến năm 2023, con số này có thể lên đến gần 76,8 triệu tấn, đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 2,8%/năm trong 5 năm 2018-2023.

Động lực cho tăng trưởng nhu cầu phân kali toàn cầu chủ yếu là nhu cầu từ hai khu vực khác nhau trên thế giới: châu á và châu Mỹ La tinh.

Nhu cầu phân kali của Trung Quốc

Trung Quốc hiện chỉ sản xuất đủ phân kali để đáp ứng khoảng một nửa nhu cầu trong nước, một nửa còn lại được nhập khẩu từ nước ngoài. Tuy sản xuất phân đạm và phân lân tại đây đang phải đứng trước áp lực ngày càng tăng của các quy định chặt chẽ về bảo vệ môi trường, nhưng vấn đề này không ảnh hưởng đến sản xuất phân kali của Trung Quốc, vì đây là sản phẩm được khai thác từ các mỏ ngầm dưới mặt đất.

Mặc dù vậy, công suất phân kali trong nước của Trung Quốc có vẻ như đã đạt đến giới hạn là khoảng 16 triệu tấn trong năm 2017. Hiện nay, các nhà quan sát thị trường không nhận thấy sự cải thiện tiếp về công suất phân kali mới hoặc mở rộng công suất ở Trung Quốc.

Trong bối cảnh đó, nhập khẩu đang trở nên ngày càng quan trọng đối với Trung Quốc.

Người nông dân Trung Quốc hiện đang tăng cường sử dụng phân kali để cải thiện chất lượng cây trồng, đặc biệt là rau xanh và hoa quả. Nhìn chung, phân đạm và phân lân đã được sử dụng quá nhiều tại đây, trong khi đó lượng sử dụng phân kali vẫn còn khá thấp.

Ngoài Trung Quốc, các khu vực trồng cọ dừa tại Đông Nam á (Malayxia và Inđônêxia) dự kiến cũng sẽ gia tăng lượng sử dụng phân kali.

Cùng với đó, nhu cầu phân kali tại châu Mỹ La tinh đang tăng khi khu vực này mở rộng sản xuất đậu nành. Các diện tích trồng đậu nành với năng suất thấp hiện nay đang tạo ra nhu cầu tiềm năng đối với phân kali.

Các vấn đề về nguồn cung

Về mặt nguồn cung, các nhà sản xuất phân kali đã tìm cách hạn chế nguồn cung từ năm 2013, khi các công ty tại Canađa tự nguyện giảm sản lượng của một số cơ sở sản xuất. Tuy nhiên, từ khi đó cho đến năm 2017 sản lượng thấp hơn đã không giúp cho phân kali tăng giá trên thị trường toàn cầu.

Năm 2017, các nhà sản xuất Canađa đã duy trì kỷ luật về sản lượng phân kali. Canađa cũng như các nơi khác trên thế giới đã giữ tỷ lệ vận hành công suất sát với nhu cầu của khách hàng, nhờ đó đã có ảnh hưởng tích cực đến giá phân kali.

Hơn nữa, các dự án mới trên thế giới đã được đưa vào vận hành chậm hơn so với kế hoạch ban đầu.

Theo CRU International, Nga có thể tăng sản lượng phân kali lên thêm 7 triệu tấn khi hai nhà máy tại đây mở rộng công suất.

Một nhà máy tại Saskatchewan (Canađa) đã bắt đầu sản xuất vào tháng 6/2017, tuy nhiên đã sớm gặp một số vấn đề về chất lượng sản phẩm, vì vậy đã không thể xuất khẩu sản phẩm sang Mỹ trước năm 2019.

Hiện nay, chi phí sản xuất phân kali tại Nga và Belarut đang ở mức cao nhất. Sự hồi phục của đồng rúp Nga so với đồng đôla Mỹ cũng như giá năng lượng cao hơn 30% và giá nhân công tăng đã khiến cho chi phí tại đây tăng 23%. Theo các chuyên gia, biên lợi nhuận trong sản xuất phân kali ở những khu vực này rất thấp.

Chi phí sản xuất phân kali của Canađa cũng tăng 12% do giá năng lượng và chi phí nhân công cao hơn, tuy nhiên các cơ sở sản xuất tại đây ngày càng tập trung ở những khu mỏ với chi phí thấp.

Chi phí sản xuất phân kali tại châu Âu hiện đã tăng 17% do chi phí năng lượng tăng rất cao. Những mỏ quặng kali tại đây thường có quy mô nhỏ và bậc chất lượng sản phẩm thấp.

Thách thức về nguồn cung

Trong tương lai, nguồn cung phân kali sẽ tăng, mặc dù muộn hơn so với dự kiến của ngành.

Tất cả các đợt gia tăng công suất trong thời kỳ 2008-2017 đều là mở rộng công suất ở những cơ sở đã có. Tuy nhiên, trong tương lai phần lớn các nguồn cung phân kali mới sẽ đến từ các nhà máy mới xây dựng. Nếu các nhà máy mới này đi vào vận hành trong 5 năm tới, khoảng 16 triệu tấn công suất mới sẽ được bổ sung trên toàn cầu. Đây là thách thức lớn đối với ngành sản xuất phân kali.

Với 16 triệu tấn công suất mới, nguồn cung phân kali mới trong 5 năm tới sẽ rất lớn, trong khi đó nhu cầu sẽ chỉ tăng thêm khoảng 10 triệu tấn.

HS

Theo CRU International, 2/2019