
Năm 2016, tổng sản lượng thuốc BVTV của Trung Quốc chỉ tăng nhẹ, với mức tăng thấp hơn cùng kỳ năm trước. Thu nhập hoạt động trong sản xuất thuốc BVTV cũng chỉ đạt mức tăng trưởng thấp hơn, do nhu cầu suy yếu dẫn đến cung vượt cầu và gây áp lực giảm giá đối với phần lớn các sản phẩm.
Với những nỗ lực nhằm hạn chế sự gia tăng lượng sử dụng thuốc BVTV trong nông nghiệp, chính phủ Trung Quốc đã hỗ trợ quảng bá những loại thuốc BVTV hiệu quả cao, độc tính thấp và lượng tồn dư thấp. Vì vậy, nông dân Trung Quốc đã sử dụng thuốc BVTV nhập khẩu ngày càng nhiều.
Trong năm 2016, cả thị trường thuốc BVTV nội địa của Trung Quốc và thị trường quốc tế đều phải vất vả đối phó với nhiều thách thức khác nhau, như nhu cầu sử dụng hạn chế, các quy định cấm sử dụng những loại thuốc BVTV có độc tính cao, lợi nhuận thấp của người nông dân và nguồn cung thuốc BVTV dư thừa. Hơn nữa, các quy định chặt chẽ hơn về an toàn sức khỏe và bảo vệ môi trường đã khiến cho chi phí sản xuất gia tăng. Biên lợi nhuận của ngành sản xuất thuốc BVTV đã giảm sút nghiêm trọng, nhiều công ty chỉ hoạt động cầm chừng trên mức hòa vốn.
Xuất nhập khẩu thuốc BVTV của Trung Quốc cũng suy yếu trong năm 2016. Theo thống kê của Bộ nông nghiệp nước này, cả số lượng xuất nhập khẩu và giá thuốc BVTV đều giảm thấp hơn năm 2015. Trong 10 tháng đầu năm 2016, Trung Quốc xuất khẩu 1,099 triệu tấn thuốc BVTV với giá trị 4,512 tỷ USD - giảm 15% và 27% tương ứng so với cùng kỳ năm trước. Trong cùng thời kỳ, Trung Quốc nhập khẩu 32,8 nghìn tấn với giá trị 371 triệu USD, giảm 35% và 37% tương ứng so với năm trước.
Những áp lực về bảo vệ môi trường
Cuối năm 2015, Trung Quốc đã công bố kế hoạch 5 năm lần thứ 13 đối với ngành sản xuất thuốc BVTV. Kế hoạch này khuyến khích các công ty trong ngành tiến hành quá trình củng cố sát nhập và kết hợp với nhau để hoạt động trong các khu công nghiệp. Năm 2016, Bộ Công nghiệp và công nghệ thông tin đã công bố danh sách những công ty sẽ phải di chuyển địa điểm, chủ yếu ở những tỉnh có nhiều công ty hoạt động trong công nghiệp hóa chất như Sơn Đông, Tứ Xuyên, Giang Tô. Tại Sơn Đông, các công ty công nghiệp hóa chất trong các vùng đô thị cổ sẽ phải di chuyển hoặc nâng cấp thiết bị, các công ty sản xuất hoặc sử dụng hóa chất nguy hiểm sẽ phải chuyển vào các khu công nghiệp. Tại Giang Tô, các công ty cũng đang phải chuẩn bị di chuyển vào các khu công nghiệp.
Năm 2016, ngoài những áp lực của quá trình củng cố sát nhập, các công ty sản xuất thuốc BVTV còn phải đứng trước những thách thức đối với hoạt động và thậm chí đối với sự tồn tại của mình, khi Bộ Bảo vệ môi trường tiến hành chiến dịch toàn quốc nhằm điều tra và xử lý những công ty vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường cũng như phát triển bền vững.
Một tổ kiểm tra về môi trường của chính phủ trung ương Trung Quốc đã tiến hành hai đợt kiểm tra vào tháng 7 và tháng 11/2016. Nhiều công ty đã bị buộc phải ngừng sản xuất do không tuân thủ các quy tắc về bảo vệ môi trường, những người chịu trách nhiệm đã bị trừng phạt. Trong số đó, có một số công ty nằm ở những thành phố sản xuất hóa chất với quy mô lớn tại những tỉnh như Hồ Bắc và Tứ Xuyên.
Sau khi mùa đông bắt đầu vào tháng 11, một số thành phố như Bắc Kinh, Thiên Tân, Hà Bắc đã công bố cảnh báo ô nhiễm nghiêm trọng. Nhiều tỉnh sản xuất hóa chất như Hà Bắc, Sơn Đông, Hà Nam, Tứ Xuyên, đã chìm trong sương mù do ô nhiễm hóa chất, nhiều biện pháp khẩn cấp đã được thực hiện nhằm hạn chế sản xuất, hạn chế phát thải ô nhiễm hoặc ngừng sản xuất. Một chiến dịch mạnh mẽ nhất chống lại khói mù ô nhiễm đã diễn ra trên toàn quốc.
Những hành động như trên đã tạo thêm gánh nặng lên hoạt động sản xuất của ngành thuốc BVTV tại Trung Quốc và gây trở ngại cho việc cung cấp các sản phẩm nông hóa cũng như nguyên liệu, khiến cho giá các sản phẩm BVTV tăng cao.
Hơn một nửa sản lượng thuốc diệt cỏ Glyphosate toàn cầu được sản xuất ở Trung Quốc. Trước áp lực của các biện pháp bảo vệ môi trường, giá của sản phẩm này tại Trung Quốc đã tăng mạnh 30% so với năm trước. Giá thuốc diệt cỏ Glufosinat sau khi giảm mạnh trong năm 2015 cũng đã tăng mạnh trở lại vào cuối năm 2016.
Trong năm tới, Bộ Bảo vệ môi trường Trung Quốc dự định sẽ tiến hành đợt điều tra toàn quốc lần thứ hai về các nguồn gây ô nhiễm môi trường. Do đó, các công ty công nghiệp hóa chất Trung Quốc sẽ phải chịu áp lực lớn hơn, buộc họ phải áp dụng các phương thức sản xuất xanh và thân thiện môi trường hơn. Chính phủ Trung Quốc đã nhận thức rằng cần đạt được sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ tài nguyên, môi trường, vì vậy đang tìm cách đạt được sự cân bằng như vậy. Đây sẽ là thử thách khó khăn đối với các công ty hóa chất nói chung cũng như các công ty sản xuất thuốc BVTV nói riêng.
Khi Trung Quốc ngày càng quan tâm đến phát triển bền vững và bảo vệ sức khỏe con người, chính phủ đã làm việc không mệt mỏi để loại bỏ dần và thay thế các loại thuốc BVTV có độc tính cao. Các quy định sửa đổi đã được đưa ra nhằm giảm độc tính và giảm dư lượng thuốc BVTV. Cho đến nay, Trung Quốc đã cấm bán và cấm sử dụng 39 thuốc BVTV.
Trong năm 2016, lệnh cấm bán và sử dụng dung dịch paraquat từ ngày 1/7/2016 đã gây ra nhiều tranh cãi. Đây là sản phẩm thuốc diệt cỏ được bán ra nhiều thứ hai trên thế giới.
Dung dịch nước paraquat là sản phẩm được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và khó có thể bị loại bỏ sớm mặc dù có lệnh cấm. Điều này sẽ gây ra nhiều đau đầu cho các cơ quan điều chỉnh pháp luật.
Sản xuất glufosinat và pyraclostrobin
Trong vài năm qua, hai sản phẩm thuốc BVTV là thuốc diệt cỏ glufosinat và thuốc diệt nấm pyraclostrobin đã đạt thành công thương mại lớn trên thị trường Trung Quốc.
Thuốc diệt cỏ glufosinat đã trở nên được ưa chuộng rộng rãi sau khi Công ty Bayer của Đức phát triển thành công hạt giống biến đổi gen, chịu được glufosinat, và đặc biệt là sau khi Trung Quốc cấm sử dụng thuốc diệt cỏ paraquat. Khi cây trồng biến đổi gen được trồng ngày càng nhiều trên những diện tích đất lớn, nhu cầu và tiềm năng thị trường của glufosinat đã tăng mạnh.
Đầu năm 2015, công suất sản xuất glufosinat đã bắt đầu tăng tại Trung Quốc và các nước khác. Nhưng sản lượng glufosinat tăng thêm đã không được thị trường hấp thụ đủ nhanh. Kết quả là giá glufosinat kỹ thuật do các công ty Trung Quốc cung ứng đã rơi tự do trên thị trường, từ mức kỷ lục là 350.000 nhân dân tệ/ tấn trong năm 2014 xuống chỉ còn 119.000 nhân dân tệ/tấn vào tháng 6/2016. Sau đó, chính sách bảo vệ môi trường ngày càng thắt chặt đã giúp giá glufosinat tăng trở lại đến 155.000 nhân dân tệ/tấn.
Sau khi hoàn thành quá trình mở rộng sản xuất, công suất glufosinat tại một số công ty sản xuất thuốc BVTV của Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng mạnh: công suất glufosinat của Công ty Lier Chemcial tăng từ 3.600 tấn/ năm lên 17.600 tấn/ năm, công suất của Công ty Sichuan Leshan Fuhua Tongda Agro-Chemical tăng từ 6.000 tấn/ năm lên 12.000 tấn/ năm, công suất của Công ty Hebei Veyong Bio-Chemical tăng từ 450 tấn/ năm lên 4.500 tấn/năm.
Giá glufosinat kỹ thuật đã chạm đáy và không có lý do để giảm tiếp. Trong sản xuất glufosinat, các công ty Trung Quốc vẫn gặp phải những thách thức kỹ thuật không dễ vượt qua. Sản phẩm glufosinat kỹ thuật do họ sản xuất không đủ tinh khiết và có thể dễ dàng gây ra các vấn đề về an toàn cháy nổ. Vì vậy, nhiều công ty sẽ phải mua thêm thiết bị đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe và đầu tư cho việc bảo dưỡng những thiết bị đó. Nếu các công ty sản xuất thuốc BVTV của Trung Quốc không giải quyết được những vấn đề này, họ sẽ gặp phải rủi ro là bị các công ty cạnh tranh đẩy ra khỏi thị trường.
Tháng 6/2016, thời hạn bảo hộ sáng chế đối với thuốc diệt nấm pyraclostrobin tại Trung Quốc đã hết hạn, mở ra những cơ hội mới cho sản xuất các sản phẩm kỹ thuật và sản phẩm pha chế từ hoạt chất pyraclostrobin. Ngoài nhu cầu ở thị trường nội địa Trung Quốc, thị trường quốc tế cũng đang phát triển mạnh, người sử dụng ở những khu vực như châu Âu và ấn Độ đang theo sát xu hướng thị trường ở Trung Quốc. Đầu năm 2016, nhiều giấy chứng nhận đăng ký sản phẩm pyraclostrobin đã được cấp cho các công ty Trung Quốc, tiếp theo là sự gia tăng mạnh của các hạng mục và chủng loại sản phẩm. Giá pyraclostrobin kỹ thuật đã tăng mạnh lên 350.000 nhân dân tệ/ tấn, mặc dù vậy cung vẫn không đủ cầu.
Tổng cộng, đã có 92 công ty Trung Quốc và công ty nước ngoài tham gia sản xuất pyraclostrobin.
Một số công ty Trung Quốc đang tiến hành mở công suất sản xuất pyraclostrobin kỹ thuật, dự kiến sẽ đưa vào vận hành cuối năm 2017, vì vậy cạnh tranh trên thị trường này sẽ ngày càng quyết liệt hơn.
Tại Trung Quốc, pyraclostrobin được sử dụng chủ yếu cho rau xanh và cây ăn quả. Trên toàn cầu, cây trồng nông nghiệp trên các diện tích lớn như đậu nành, ngũ cốc chiếm phần lớn lượng sử dụng pyraclostrobin, chỉ có 20% được sử dụng cho rau xanh và cây ăn quả.
LH
Theo Chemistry & Industry, 3/2017