
Với những tính chất như trọng lượng nhẹ, độ bền cao, khả năng chịu hóa chất và tác động vật lý tốt, vật liệu polyolefin thường được ưu tiên sử dụng thay thế cho kim loại và các vật liệu phi kim loại khác, nhờ đó nhu cầu polyolefin trong các ngành công nghiệp đã không ngừng tăng.
Trong những năm qua, thị trường polyolefin toàn cầu đã không ngừng tăng trưởng nhờ nhu cầu và lượng sử dụng ngày càng cao trong các ngành sản xuất bao bì đóng gói, chế tạo xe ôtô, sản xuất đồ điện tử. Trong số các sản phẩm polyolefin, lượng sử dụng polypropylen (PP) đã tăng đáng kể nhờ nhu cầu trong lĩnh vực bao bì mềm. PP dự kiến sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất trên thị trường polyolefin toàn cầu, tiếp theo sau là HDPE. Vật liệu polyolefin được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực đúc khuôn thổi và đúc khuôn phun, hơn nữa các lĩnh vực ứng dụng tiên tiến và đổi mới cũng là những cơ hội thị trường quan trọng cho các sản phẩm polyolefin.
Năm 2016, thị trường polyolefin toàn cầu đã đạt tổng khối lượng 152 triệu tấn và dự kiến sẽ đạt 263 triệu tấn vào năm 2025, với tốc độ tăng trưởng trung bình dự báo cho thời kỳ 2017-2025 là 6,38%/năm.
Thị trường châu Âu với nhu cầu ổn định
Trong năm 2017, các nhà sản xuất polyolefin tại châu Âu tiếp tục đạt được lợi nhuận cao mặc dù giá dầu thô đã tăng đáng kể. Giá dầu thô duy trì ở mức trung bình 52 USD/ thùng trong 9 tháng đầu năm, cao hơn 24% so với cùng kỳ năm trước. Giá dầu cao cũng khiến cho giá naphta tăng tương tự, cao hơn 25,5% so với cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên, có vẻ như giá nguyên liệu cao trong năm 2017 đã không ảnh hưởng đến lợi nhuận nói chung của các cơ sở sản xuất hóa dầu ở châu Âu. Theo ước tính của các nhà phân tích thị trường, biên lợi nhuận của các nhà máy crăcking trong 9 tháng đầu năm nay cao hơn 25,3% so với mức trung bình cùng kỳ năm 2016. Đây là kết quả của sự tăng giá etylen và propylen, đặc biệt là các sản phẩm nặng hơn như butadien và benzen còn tăng giá nhiều hơn.
Biên lợi nhuận của các nhà sản xuất kết hợp polyetylen (PE) và polypropylen (PP) cũng giữ ở mức ổn định.
Nếu giá dầu thô trong năm 2018 tăng ở mức vừa phải (khoảng 4-5% theo ước tính của các nhà phân tích), các nhà máy polyme sẽ tiếp tục duy trì lợi nhuận ở mức lành mạnh. Khi giá nguyên liệu có triển vọng tương đối ổn định trong những điều kiện như hiện nay, yếu tố có thể gây ra sự khác biệt trong ngành sản xuất polyolefin sẽ là cân bằng cung cầu trên thị trường.
Quan điểm của nhiều khách hàng lớn trên thị trường polyolefin châu Âu đã thay đổi rõ rệt sau năm 2015, khi một loạt vấn đề và sự cố ở các nhà máy polyme trong khu vực đã dẫn đến tình hình thiếu hụt sản phẩm trong thời gian dài, khiến cho giá tăng mạnh. Hiện nay, những khách hàng lớn sẽ chú ý nhiều hơn đến việc quản lý hàng tồn kho và đánh giá tác động của những đợt dao động giá ngắn hạn.
Theo ước tính sơ bộ của các nhà phân tích tại Công ty nghiên cứu thị trường ICIS, tiêu thụ PP tại châu Âu đạt cao hơn 3,0-3,5% so với năm trước, trong khi đó tiêu thụ HDPE và LLDPE tăng 2,0-2,5%, nhưng tiêu thụ LDPE chỉ tăng nhẹ 0,5-1,0%.
Những dự báo hiện nay cũng cho thấy tốc độ tăng trưởng của tiêu thụ polyme tại châu Âu trong năm 2018 sẽ cao hơn 0,1-0,2% so với năm 2017. Điều kiện kinh tế trong khu vực được cải thiện cùng với niềm tin kinh tế gia tăng trong năm 2017 đang hỗ trợ những dự báo này, bất chấp những căng thẳng chính trị tại Tây Ban Nha.
Mặt khác, những nhà máy PE mới ở các khu vực khác, đặc biệt là ở Mỹ, sẽ giúp tăng cơ hội nhập khẩu cho khách hàng ở châu Âu. Dự kiến, phần lớn các nhà máy mới này sẽ bắt đầu đưa những lượng lớn sản phẩm ra thị trường vào quý 2/2018 và có thể ảnh hưởng đến nguồn cung cũng như giá trong nửa sau của năm.
Nhưng triển vọng của thị trường PP có thể sẽ khác, tình hình cung cầu sít sao được dự báo sẽ chi phối thị trường trong vài năm tới. Chỉ có một thay đổi duy nhất đã diễn ra trong sản xuất PP ở châu Âu, khi tổ hợp nhà máy của Công ty Unipetrol tại Litvinov (Cộng hòa Séc) tăng công suất lên 345.000 tấn/năm để đáp ứng tình trạng cầu vượt cung trên thị trường.
Trên thế giới, hoạt động đầu tư vào sản xuất PP cũng tương đối hạn chế. Trong thời gian 2017-2018, sẽ chỉ có tổng cộng khoảng 5,5 triệu tấn công suất mới được đưa vào vận hành, khá thấp so với xu hướng gia tăng nhu cầu toàn cầu, với dự báo nhu cầu PP năm 2018 sẽ cao hơn năm 2016 khoảng 7,2 triệu tấn. Tỷ lệ vận hành công suất của các nhà máy PP trên thế giới đã liên tục tăng từ năm 2014 và dự kiến sẽ đạt 91% vào năm 2018.
Trong bối cảnh đó, nguồn cung PP tại châu Âu sẽ duy trì ở mức cân bằng cho đến sít sao so với nhu cầu. Châu Âu sẽ tiếp tục nằm trong tình trạng thiếu hụt thương mại và năm 2018 sẽ tiêu thụ khoảng 750.000 tấn PP nhiều hơn so với công suất trong khu vực.
Thị trường châu á với vai trò chi phối của Trung Quốc
Châu á dự kiến sẽ chiếm thị phần lớn nhất trên thị phần polyolefin toàn cầu vào năm 2025 nhờ nhu cầu xe ôtô ngày càng tăng đang kéo theo nhu cầu polyolefin trong khu vực. Hơn nữa, với xu hướng thay đổi lối sống của người tiêu dùng châu á, nhu cầu thực phẩm đóng gói sẵn cũng đang tăng, qua đó thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành công nghiệp bao bì - lĩnh vực tiêu thụ lớn nhất của vật liệu polyolefin.
Tại châu á, Trung Quốc đang tìm cách thực hiện những cải cách kinh tế mà có thể là khó khăn nhất trong toàn bộ lịch sử kinh tế của mình. Sự thành công hay thất bại của những chính sách cải cách như vậy sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế cũng như thị trường hóa chất Trung Quốc nói chung và thị trường polyolefin nói riêng.
Do quy mô lớn của nhu cầu và tình trạng thiếu hụt nguồn cung, Trung Quốc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với thị trường polyolefin toàn cầu, khác hẳn bất cứ nước nào khác trên thế giới. Ví dụ, năm 2017 Trung Quốc đã nhập khẩu khoảng 10 triệu tấn PE, nhiều hơn bất cứ khu vực hoặc quốc gia nào khác.
Nếu Trung Quốc thành công trong những nỗ lực cải cách kinh tế và GDP tăng trưởng trung bình 5,6%/năm trong thời kỳ 2018-2025, khối lượng nhập khẩu polyolefin của quốc gia này sẽ tiếp tục tăng mạnh, tiêu thụ PE năm 2025 được dự báo sẽ cao hơn 10 triệu tấn so với năm 2018. Nhìn chung, nhu cầu polyolefin thường tăng trưởng cao hơn nhiều so với tăng trưởng GDP, vì vậy nếu GDP càng tăng trưởng mạnh thì thị trường polyolefin sẽ càng phát triển tốt hơn.
Tuy nhiên, trong những tình huống xấu Trung Quốc có thể gặp phải những vấn đề như: nợ công không được giải quyết dẫn đến khủng hoảng tài chính, các ngành công nghiệp mới không phát triển đủ nhanh để bù đắp lại cho những ngành cũ đang trải qua quá trình cải cách cơ cấu và cắt giảm sản xuất, không kiểm soát được vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Khi đó, GDP có thể chỉ tăng trưởng 3,6%/năm trong thời kỳ 2018-2015. Theo kịch bản này, tiêu thụ PE của Trung Quốc năm 2025 được dự báo sẽ chỉ tăng 5,7 triệu tấn so với năm 2018.
Ngành sản xuất polyolefin của Mỹ rất cần một đất nước Trung Quốc với nền kinh tế phát triển mạnh, vì đây là nơi mà ngành này sẽ xuất khẩu những lượng lớn sản phẩm mới do kết quả của những hoạt động mở rộng công suất PE dựa trên tiềm năng của khí đá phiến. Tại Mỹ, tiêu thụ polyolefin nội địa dự kiến sẽ chỉ tăng 12%.
Thị trường Bắc Mỹ với những tác động của siêu bão Harvey
Sau Trung Quốc và ấn Độ, Mỹ được dự báo sẽ trở thành quốc gia mới nổi tiếp theo trên thị trường polyolefin trong thời gian tới. Những động lực chính thúc đẩy sự phát triển của thị trường polyolefin tại Mỹ là quá trình đô thị hóa tiếp tục tăng, sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp khí đá phiến và nhu cầu ngày càng tăng trong ngành sản xuất bao bì.
Tuy nhiên, tháng 8/2017 siêu bão Harvey đã gây ra lũ lụt chưa từng thấy và thảm khốc ở vùng đông nam bang Texas của Mỹ. Đây là trận bão lớn đầu tiên đổ bộ vào đất liền Mỹ kể từ năm 2005, chấm dứt giai đoạn 12 năm kỷ lục không có siêu bão đổ bộ vào Mỹ. Các nhà kinh tế đã gọi Harvey là thảm họa tồi tệ nhất trong lịch sử bang Texas, và dự kiến quá trình hồi phục phải mất nhiều năm. ước tính sơ bộ về tổn thất kinh tế có thể lên tới 10-40 tỷ USD, với một số dự đoán lên tới 60 tỷ USD.
Siêu bão Harvey đã đặt ra nhiều câu hỏi đối với nước Mỹ và các nơi khác trên khắp toàn cầu. Đối với nguồn cung các sản phẩm hóa dầu trong nước, câu hỏi đầu tiên là: Nguồn cung có được khôi phục hay không?. Sau hai hoặc ba đợt tăng nguồn cung, câu hỏi tiếp theo đối với phần lớn khách hàng là: Tôi sẽ phải trả giá nào?. Tại châu Âu, người ta cũng sẽ hỏi: Những việc đó có ảnh hưởng đến chúng ta ở đây hay không?.
Vào tháng 9/2005, khi trận bão Rita lịch sử đổ bộ vào bờ biển Mỹ, sản xuất của khoảng 13 nhà máy lọc dầu ở đây đã bị ngưng trệ trong một số tuần. Nhưng điều đáng lo ngại là siêu bão Harvey năm nay đã mang lại nhiều mưa và lụt lội hơn.
Chỉ số giá hóa dầu của Mỹ đã tăng mạnh 29% ngay sau bão Rita tháng 9/2005 và sau đó lại tăng một lần nữa vào tháng 10 tiếp theo, sau đó mới giảm chậm về mức bình thường. Do hai trận bão Rita và Harvey tương tự như nhau, có thể dự kiến tác động tương tự đối với thị trường hóa dầu Mỹ. Sau bão Rita, giá cả trên thị trường hóa dầu Mỹ phải đến năm 2008 mới trở về mức bình thường như trước.
Sau bão Rita, giá các sản phẩm hóa dầu trên thị trường châu Âu cũng tăng mạnh 20%. Thị trường châu Âu chỉ trở về mức bình thường vào cuối năm 2006, sau khi xuất khẩu từ Mỹ đến EU tăng 17% khiến cho nguồn cung nội địa tại Mỹ trở nên sít sao.
Tại Mỹ, sự hồi phục của thị trường hóa dầu sau bão Harvey đã diễn ra chậm hơn so với sau bão Rita. Đến giữa tháng 10/2017, mức hồi phục của tỷ lệ vận hành công suất vẫn thấp hơn 8,8% so với mức hồi phục tương tự sau bão Rita. Tình trạng này có thể dẫn đến sự thắt chặt nguồn cung, làm tăng giá một số sản phẩm.
HS, Theo ICIS Chemical, 11/2017