
Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực tiêu thụ phân bón quan trọng nhất trên thế giới, chiếm hơn 60% tổng nhu cầu phân đạm toàn cầu nhờ dân số lớn và sự thích hợp của phân đạm urê đối với ngành nông nghiệp trong khu vực. Động lực chính cho sự tăng trưởng nhu cầu phân bón tại châu á là tăng trưởng nhu cầu tại Trung Quốc và Ấn Độ, hai quốc gia đông dân nhất thế giới.
Tình hình tiêu thụ
Trung Quốc là quốc gia tiêu thụ urê lớn nhất thế giới: Một phần ba sản lượng urê toàn cầu được tiêu thụ tại Trung Quốc.
Nhu cầu urê tại Trung Quốc ước tính đạt 58 triệu tấn trong năm 2017, thấp hơn so với mức 60 triệu tấn năm 2013. Một phần nguyên nhân của sự suy giảm này là việc giảm tỷ lệ bón phân dưới tác động của chính sách giảm tiêu thụ phân hóa học do chính phủ Trung Quốc đưa ra. Khoảng 60% urê ở Trung Quốc được tiêu thụ trong sản xuất ngũ cốc và các loại cây hạt dầu như ngô, đậu nành, hạt cải dầu,
ứng dụng công nghiệp là lĩnh vực tiêu thụ urê lớn thứ hai tại Trung Quốc, bao gồm sản xuất melamine, nhựa urê - formaldehyt, chất kết dính và các ứng dụng công nghiệp khác. Thị trường ứng dụng công nghiệp của urê đã tăng trưởng cùng với sự phát triển nhanh của ngành xây dựng, quá trình đô thị hóa và thu nhập gia tăng của người dân. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực thị trường này đang giảm đi cùng với sự suy giảm chung của nền kinh tế. Ngày nay, amoni bicacbonat và amoni clorua vẫn được sử dụng ở Trung Quốc nhờ sự sẵn có của chúng. DEF/AdBlue tuy là lĩnh vực ứng dụng urê quy mô nhỏ nhưng đang phát triển nhanh ở Trung Quốc, chủ yếu được sử dụng trong động cơ điêzen để giảm phát thải khí NOx.
Sau Trung Quốc và Mỹ, ấn Độ là quốc gia tiêu thụ urê lớn thứ ba trên thế giới, với nhu cầu ước tính khoảng 32 triệu tấn trong năm 2017. ấn Độ chỉ tiêu thụ một lượng nhỏ urê trong các ứng dụng công nghiệp hoặc sản xuất nhiên liệu sinh học, 99% urê trong nước được sử dụng để bón trực tiếp cho cây lương thực. Lúa nước và lúa mì là những cây trồng quan trọng nhất đối với tiêu thụ phân đạm ở ấn Độ. Nông dân tại đây có xu hướng ưu tiên sử dụng nhiều urê vì loại phân bón này rẻ và được trợ cấp nhiều hơn rất nhiều so với phân lân và phân kali. Trên thực tế, chính sách trợ cấp đã dẫn đến tình trạng lạm dụng urê, qua đó ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng đất và năng suất thu hoạch cây trồng ở nhiều khu vực. Để giải quyết những hậu quả của việc lạm dụng urê và ngăn không cho urê trợ cấp được chuyển sang sử dụng trong công nghiệp, chính phủ ấn Độ đã quy định ít nhất 75% sản lượng urê trong nước phải được bọc hạt neem. Những lo ngại về tác động của việc sử dụng phân bón quá mức và ảnh hưởng đối với môi trường có khả năng sẽ làm chậm lại sự gia tăng nhu cầu tiêu thụ urê trong tương lai tại ấn Độ.
Nhưng nhu cầu urê ở các nước còn lại trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đã tăng đáng kể trong những năm gần đây. Nhu cầu ở những nước này (không tính Trung Quốc và Ấn Độ) đã tăng từ 20,3 triệu tấn năm 2000 lên khoảng 28 triệu tấn năm 2017. Inđônêxia và Việt Nam là những quốc gia tiêu thụ urê nhiều nhất trong số những nước đó. Động lực chính cho tăng trưởng tiêu thụ urê tại đây là nhu cầu urê sử dụng làm phân bón trực tiếp, chiếm hơn 90% tổng tiêu thụ urê.
Inđônêxia là quốc gia tiêu thụ phân đạm lớn thứ ba trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (sau Trung Quốc và Ấn Độ), chiếm khoảng 5% tổng tiêu thụ của khu vực. Năm 2017, tiêu thụ phân đạm tại đây ước đạt khoảng 18 triệu tấn.
Tiêu thụ urê cho sản xuất nhiên liệu sinh học nhìn chung chỉ chiếm khoảng 1% tổng nhu cầu urê trong khu vực, nhưng chiếm tỷ lệ đáng kể ở một số quốc gia Đông Nam Á. Ví dụ, Thái Lan có ngành sản xuất etanol sinh học và điêzen sinh học quy mô lớn với những kế hoạch tăng trưởng đầy tham vọng.
Xu hướng phát triển công suất
Năm 2017, chỉ riêng Trung Quốc đã chiếm hơn 40% (khoảng 89 triệu tấn) trong tổng công suất urê toàn cầu. Ngành sản xuất amoniăc và urê trên thế giới hiện đang phải chịu áp lực của nguồn cung dư thừa. Do các biện pháp hạn chế sản xuất để bảo vệ môi trường đang được thực hiện trong ngành than của Trung Quốc, người tiêu dùng đang chuyển hướng sang các phương pháp sưởi và đun nấu bằng khí thiên nhiên, ít gây ô nhiễm hơn. Tình trạng này dĩ nhiên đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất amoniăc dựa trên nguyên liệu khí thiên nhiên cũng như ngành sản xuất các sản phẩm cuối dòng trong nước, khi những lượng lớn khí thiên nhiên được ưu tiên sử dụng cho lĩnh vực sưởi. Hơn nữa, ngành sản xuất urê tại Trung Quốc đã phải chịu ảnh hưởng của những biện pháp giám sát chặt chẽ về môi trường, nhiều nhà máy nhỏ với năng lực cạnh tranh yếu hơn đã phải đóng cửa. Sản xuất urê nội địa chỉ hoạt động dưới 50% công suất danh định. Sự cắt giảm công suất này nhìn chung là sự kết hợp giữa việc đóng cửa các nhà máy do các biện pháp kiểm soát ô nhiễm và việc giảm sản lượng nhằm mục đích giữ giá sản phẩm.
Tại ấn Độ, hơn 10 dự án amoniăc và urê dựa trên nguyên liệu khí thiên nhiên cũng như than đá đang được xem xét xây dựng. Nhưng dự kiến sẽ chỉ có 3-4 dự án trở thành hiện thực trong 5 năm tới. Các vấn đề về nguồn cung khí thiên nhiên cũng như tình trạng chậm giải ngân các nguồn trợ cấp của chính phủ có thể cản trở các công ty tư nhân đầu tư vào sản xuất phân bón. Công ty Phân bón và hóa chất Chambal đang xây dựng một nhà máy amoniăc 790.000 tấn/năm và một nhà máy urê 1,44 triệu tấn/năm, dự kiến sẽ bắt đầu hoạt động trong năm 2019. Các nhà máy amoniăc mới cũng đang được xây dựng ở Barauni, Bihar, Sindri và Jharkhand, dự kiến sẽ đi vào vận hành năm 2021.
Năm 2018, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (không kể Trung Quốc và ấn Độ) chiếm khoảng 11-12% tổng công suất urê toàn cầu, tức là khoảng 29 triệu tấn. Inđônêxia chiếm khoảng 30% công suất trong khu vực và là quốc gia sản xuất urê lớn nhất Châu á - Thái Bình Dương. Những đợt bổ sung công suất mới đây trong khu vực là kết quả của việc Công ty Pupuk Kaltim đưa vào vận hành các nhà máy urê mới với tổng công suất 1,1 triệu tấn trong năm 2015 và Công ty Pupuk Sriwidjaja đưa vào vận hành nhà máy urê 900.000 tấn/năm trong năm 2016. Các nhà đầu tư Đài Loan hiện đang khảo sát cơ hội đầu tư xây dựng hai nhà máy amoniăc tại Inđônêxia. Nhà máy đầu tiên trong số này dự kiến sẽ có công suất khoảng 600.000 tấn/ năm, nhà máy thứ hai dự kiến sẽ có công suất khoảng 1,8 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, các chuyên gia thị trường cho rằng những công bố nói trên chỉ có tính suy đoán, vì vẫn chưa đạt đến giai đoạn ký kết thỏa thuận về tài chính.
Pakistan và Băng-la-đét là các quốc gia sản xuất lớn tiếp theo với công suất năm 2018 đạt 8,2 triệu tấn/năm và 3,1 triệu tấn/năm tương ứng. Công ty Shajalal Fertilizer đã bắt đầu vận hành nhà máy của mình tại Fenchuganj, Băng-la-đét, vào năm 2015.
Với việc đưa vào vận hành nhà máy urê của Công ty Petronas công suất 1,1 triệu tấn/ năm tại Sipitang, Malaysia hiện có tổng công suất urê 2,6 triệu tấn/năm. Công ty Phát triển dầu khí Sabah của Malayxia và một công-xoóc-xi-om Trung Quốc đã ký biên bản ghi nhớ với ý định thực hiện nghiên cứu khả thi một nhà máy amoniăc/urê tại Khu công nghiệp dầu khí Sipitang ở bang Sabah, phía đông Brunei.
Công ty Fertilizer Industries của Brunei đã trao hợp đồng thầu thực hiện một dự án phân bón mới cho Công ty Thyssenkrupp (Đức), bao gồm nhà máy amoniăc 726.000 tấn/năm và nhà máy urê 1,3 triệu tấn/năm tại khu vực Sangali, Brunei. Công việc xây dựng đã bắt đầu từ tháng 8-2018, các nhà máy được dự kiến sẽ đi vào hoạt động từ năm 2021.
Tại Việt Nam, Công ty Phân đạm Hà Bắc đã cải tạo nâng công suất nhà máy urê từ 180.000 tấn/năm lên 500.000 tấn/năm trong năm 2015. Một số công ty châu á đang tìm kiếm cơ hội đầu tư ở nước ngoài, đặc biệt tại các nước có nguồn khí thiên nhiên giá thấp. Tập đoàn Fatima của Pakistan đang triển khai một dự án phân bón ở vùng Trung Tây nước Mỹ.
Nhìn chung, những dự án lớn đang nằm trong giai đoạn xây dựng tại khu vực chỉ hạn chế ở các nước Inđônêxia, Malayxia và Ôxtrâylia. Năm 2015, Công ty Pupuk Katim đã khởi động nhà máy amoniăc mới với công suất 850.000 tấn/ năm ở Kalimantan, Inđônêxia. Công ty Pau cũng đã khởi công xây dựng nhà máy amoniăc 700.000 tấn/năm ở Banggai Regency, Inđônêxia, theo kế hoạch sẽ đi vào vận hành trong năm 2018.
Công ty Hóa chất tinh khiết Hu-Chems đã khởi công xây mới nhà máy sản xuất amoniăc, axit nitric và amoni nitrat tại Bintulu, Malayxia. Nhà máy này dự kiến sẽ có công suất 400.000 tấn HNO3/năm, 200.000 tấn NH4NO3/năm và 600.000 tấn NH3/năm, theo kế hoạch sẽ đi vào vận hành trong năm 2019.
Tại Ôxtrâylia, Công ty Perdaman Chemicals and Fertilizer đang xem xét xây dựng tổ hợp amoniăc/urê tại Collie, sử dụng nguồn nguyên liệu than. Tuy nhiên, dự án đang bị dừng lại do các tranh chấp pháp lý với công ty cung cấp than. Đầu năm 2018, Công ty Perdaman đã công bố kế hoạch xây dựng tổ hợp amoniăc/urê tại bán đảo Burrup. Công ty Woodside Petroleum đã đồng ý cung cấp khí thiên nhiên cho dự án.
Tình hình xuất nhập khẩu
Sau khi có những thay đổi trong thuế xuất khẩu, Trung Quốc đã trở thành quốc gia xuất khẩu urê lớn nhất thế giới. Chính phủ Trung Quốc thường điều chỉnh thị trường urê bằng cách ấn định thuế xuất nhập khẩu. Thuế xuất khẩu đặc biệt cao trong những năm qua đã dẫn đến việc hạn chế xuất khẩu urê để đảm bảo đáp ứng nhu cầu urê trong nước, đặc biệt là trong bối cảnh giá phân bón quốc tế ở mức cao. Nhưng trong những năm gần đây chính phủ Trung Quốc đã giảm mạnh thuế xuất khẩu nói chung, dẫn đến sự gia tăng đáng kể khối lượng xuất khẩu ròng. Từ năm 2015, chính phủ đã giảm tiếp thuế xuất khẩu, dẫn đến sự gia tăng tiếp công suất urê dành cho xuất khẩu. Năm 2016, thuế xuất khẩu urê duy trì ổn định ở mức 80 tệ/ tấn (11 USD/tấn). Thuế xuất khẩu urê đã bị bãi bỏ vào tháng 1/2017. Tỷ lệ vận hành công suất của Trung Quốc đã tăng đáng kể nhờ hoạt động củng cố cơ cấu nhìn chung trong ngành với việc đóng cửa các nhà máy cũ, hoạt động kém hiệu quả.
Tỷ lệ vận hành công suất trong sản xuất urê của Trung Quốc đạt trung bình khoảng 70%. Các cơ sở sản xuất dựa trên nguyên liệu than đang đứng trước tình hình giá than cao, buộc họ phải đóng cửa hoặc tăng lượng tồn kho để chờ bán sau này với giá cao hơn. Ngay cả những nhà máy hoạt động hiệu quả cũng đứng trước nhiều khó khăn nếu vận hành ở toàn bộ công suất do chi phí nguyên liệu đầu vào và giá điện tăng cao. Việc chính phủ tiếp tục tập trung thực hiện chính sách kiểm soát ô nhiễm đã bắt buộc một số nhà máy cũ và sử dụng nguyên liệu than phải đóng cửa. Nếu chính phủ không hạ tiêu chuẩn ô nhiễm trong năm 2019, sản xuất urê có thể duy trì ở mức thấp trong thời gian tới, dẫn đến khối lượng xuất khẩu urê sẽ giảm xuống mức thấp.
ấn Độ là quốc gia nhập khẩu ròng urê. Trung Quốc và Iran là những nước cung ứng urê hàng đầu cho ấn Độ. Một phần ba trong tổng nhu cầu nhập khẩu 5,5 triệu tấn của ấn Độ được đáp ứng nhờ nhập khẩu từ Iran. Nhưng để tuân thủ các biện pháp trừng phạt do Mỹ áp đặt đối với Iran vào giữa năm 2018, Ấn Độ đã quyết định ngừng mua urê của Iran.
Quyết định nói trên của ấn Độ sẽ buộc các nhà sản xuất nội địa phải vận hành ở công suất tối đa trong ngắn hạn cho đến khi tìm được nguồn nhập khẩu thay thế. Cũng có những tính toán cho rằng Iran có thể bắt đầu xuất khẩu urê sang Trung Quốc và nước này sẽ tái xuất khẩu sang những nước khác như ấn Độ. Nhìn chung, sự phụ thuộc của ấn Độ vào urê nhập khẩu được dự báo sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới do các đợt bổ sung công suất ít có khả năng sẽ theo kịp sự gia tăng của nhu cầu trong nước.
Các nước Châu Á - Thái Bình Dương (không kể Trung Quốc và Ấn Độ) là những quốc gia nhập khẩu ròng urê. Trong bối cảnh nhu cầu tăng nhanh, lượng nhập khẩu dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới. Nguồn hàng nhập khẩu này có khả năng sẽ đến từ Trung Đông, Trung Quốc và một số nước châu Phi, nơi đang có mối quan tâm ngày càng lớn về việc sử dụng các trữ lượng lớn khí thiên nhiên. Một số đợt bổ sung công suất urê dự kiến có thể sẽ được thực hiện ở những khu vực có trữ lượng khí thiên nhiên lớn nhưng hiện đang bị bỏ rơi lại đằng sau, ví dụ như Myanmar. Tuy nhiên, do những bất ổn chính trị và kinh tế nên không rõ các đợt bổ sung công suất như vậy có được thực hiện thật sự hay không và khi nào sẽ được thực hiện.
Hiện nay, khối lượng giao dịch thương mại urê trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương khá lớn. Inđônêxia có trữ lượng khí thiên nhiên lớn và là nước xuất khẩu amoniăc cũng như urê hàng đầu khu vực. Những nước tiêu thụ urê lớn nhất trong khu vực là Thái Lan, Ôxtrâylia, Việt Nam, Philipin và Hàn Quốc. Inđônêxia đang đứng trước áp lực tăng giá khí thiên nhiên nội địa do xuất khẩu khí hóa lỏng gia tăng.
TN
Theo World Fertilizer, 12/2018