
Bối cảnh kinh tế và chính trị
Kinh tế toàn cầu hồi phục
Theo Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ đạt 3,9%/ năm trong cả hai năm 2018 và 2019 nhờ tăng trưởng kinh tế cao hơn dự báo ở khu vực đồng Euro, Trung Quốc, Nhật Bản và Mỹ. Kinh tế Mỹ sẽ dẫn đầu nhóm các nước phát triển với tốc độ tăng trưởng 2,9% trong năm 2018. Tăng trưởng kinh tế ở các nền kinh tế phát triển được dự báo sẽ đạt trung bình 2,5% trong năm 2018 nhưng sẽ duy trì ở mức dưới 2%/năm trong thời gian 2020-2022. Các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển sẽ tăng trưởng 4,9% trong năm 2018 và trên 5%/năm trong thời gian 2020-2022.
Bất ổn tài chính và căng thẳng thương mại
Năm 2018, khi chương trình nới lỏng tiền tệ của Mỹ kết thúc, lãi suất ngân hàng đã tăng trên khắp thế giới khiến cho điều kiện tín dụng bị thắt chặt.
Xu hướng leo thang của căng thẳng thương mại trên thế giới, như được minh họa qua những thất bại mới đây của G20 và G7 trong việc làm sống lại quá trình toàn cầu hóa, có thể ảnh hưởng đến sự phối hợp kinh tế giữa các nước trên thế giới. Những tác động của căng thẳng thương mại đang tiếp diễn đã và đang trở thành yếu tố rủi ro đáng lo ngại đối với nền kinh tế toàn cầu.
Ảnh hưởng của các chính sách
Gần đây, một số chính sách quan trọng đã được triển khai ở các nước tiêu thụ phân bón hàng đầu thế giới. Trung Quốc đã đạt được mục tiêu của chính sách tăng trưởng 0 đối với phân bón hóa học, thể hiện ở nhu cầu hiện nay không thay đổi. Dưới tác động của chính sách này, dự kiến trong 5 năm tới nhu cầu phân bón của Trung Quốc sẽ bắt đầu giảm. Tại Nam á và vùng Tiểu Sahara châu Phi, nhiều thị trường phân bón vẫn phụ thuộc vào chính sách trợ cấp của chính phủ. Nhưng vừa qua chính phủ ấn Độ đã tiến hành kế hoạch điều chỉnh lại hàng năm chế độ trợ cấp phân bón của mình. Để giảm tiêu thụ urê và hỗ trợ sử dụng phân bón một cách cân đối, chính phủ ấn Độ đã yêu cầu các công ty giảm trọng lượng mỗi bao urê từ 50 kg xuống 45 kg.
Sản xuất nông nghiệp thế giới
Dự trữ ngũ cốc toàn cầu giảm nhẹ
Sản xuất ngũ cốc toàn cầu được dự báo sẽ duy trì ổn định trong niên vụ 2018/2019. Tuy sản lượng lúa mì giảm nhẹ lần đầu tiên trong 6 niên vụ qua, nhưng sự suy giảm này có thể được bù đắp lại bằng sự gia tăng nhẹ của sản lượng ngũ cốc thô và lúa gạo. Các lĩnh vực sử dụng ngũ cốc trên thế giới như lương thực, thức ăn gia súc và ứng dụng công nghiệp dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng. Vì vậy, dự trữ ngũ cốc toàn cầu có thể giảm vụ thứ hai liên tiếp. Phần lớn mức giảm này là do ngũ cốc thô, chủ yếu ở Mỹ và Trung Quốc. Dự trữ lúa mì và gạo dự kiến sẽ chỉ giảm nhẹ. Giá ngũ cốc đã tăng nhẹ từ đầu năm 2018, phản ánh nguồn cung đang trở nên sít sao hơn. Đồng thời, giá ngũ cốc có thể tiếp tục được hỗ trợ tăng nhờ sự suy giảm của nguồn dự trữ trong niên vụ 2018/2019. Sản lượng đậu nành dự kiến sẽ hồi phục trong niên vụ 2018/2019 khi diện tích gieo trồng tiếp tục được mở rộng, đặc biệt là ở châu Mỹ La tinh, hơn nữa năng suất thu hoạch cũng đang tăng trở về mức trung bình hàng năm. Tiêu thụ đậu nành dự kiến sẽ tăng với tốc độ ổn định. Nhìn chung, dự trữ đậu nành toàn cầu sẽ duy trì ổn định.
Sản xuất nông nghiệp tăng nhẹ
Theo Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) và Tổ chức Nông lương của Liên hợp quốc (FAO), trong thập niên tới nhu cầu lương thực toàn cầu dự kiến sẽ tăng chậm hơn so với thập niên trước. Động lực tăng trưởng nhu cầu là xu hướng gia tăng dân số, tuy mức tiêu thụ trên đầu người sẽ không tăng nhiều và chỉ tập trung tăng ở các nước kém phát triển nhất. Trường hợp ngoại lệ là các sản phẩm sữa, tiêu thụ trên đầu người được dự báo sẽ tăng vững. Nhu cầu thức ăn gia súc sẽ tiếp tục vượt nhu cầu các sản phẩm gia súc, do ngành chăn nuôi gia súc đang tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, nhu cầu thức ăn gia súc sẽ tăng chậm hơn so với thập niên trước. Tương tự như nhu cầu lương thực, sản xuất cây trồng sẽ tăng trưởng chậm hơn trong trung hạn và sẽ dựa vào gia tăng năng suất thu hoạch nhiều hơn là mở rộng diện tích. Trường hợp ngoại lệ là đậu nành với sản lượng sẽ gia tăng nhờ cả hai động lực là mở rộng diện tích gieo trồng và tăng năng suất thu hoạch.
OECD và FAO dự báo giá những cây trồng chính sẽ tăng nhẹ trong thập niên tới.
Nhu cầu phân bón thế giới
Nhu cầu phân bón tăng nhẹ
Trong niên vụ 2017/2018, tiêu thụ phân bón toàn cầu tăng nhẹ (0,9%), ước tính đạt 187 triệu tấn chất dinh dưỡng. Mức tăng trưởng nhẹ này phản ánh sự kết hợp giữa giá tương đối thấp nhưng đang tăng nhẹ của phần lớn hàng hóa nông nghiệp trên thị trường quốc tế cùng với sự gia tăng sử dụng phân bón hóa học và xu hướng tái chế nhiều hơn các nguồn dinh dưỡng hữu cơ. Nhu cầu phân lân và phân kali tăng vững, trong khi đó nhu cầu phân đạm tăng nhẹ.
Nhu cầu phân bón toàn cầu dự kiến sẽ tiếp tục tăng nhẹ trong niên vụ 2018/2019 trước triển vọng giá nông sản quốc tế duy trì ở mức thấp đến trung bình. Hơn nữa, Trung Quốc đã đạt đến điểm ngưỡng cao của tiêu thụ N và P nội địa.
Nhu cầu phân bón toàn cầu dự kiến sẽ tăng 0,8%, đạt 189 triệu tấn, với giả thiết sẽ không có những cơn sốc lớn và những bất ngờ về thời tiết, địa chính trị hoặc kinh tế.
Nhu cầu K đang đặc biệt mạnh ở các nước châu á và được dự báo sẽ tiếp tục tăng vững, trong khi đó nhu cầu N và P trên toàn cầu chỉ tăng nhẹ do ảnh hưởng của sự suy giảm dự kiến về nhu cầu N cả ở Trung Quốc và ấn Độ cũng như sự suy giảm nhu cầu P ở Trung Quốc.
Nhu cầu phân bón toàn cầu sẽ đạt gần 200 triệu tấn
Triển vọng trung hạn của nông nghiệp thế giới nhìn chung không thay đổi so với niên vụ 2017/2018. Giá phần lớn nông sản dự kiến sẽ tăng nhẹ. Mặt khác, các chính sách thân môi trường hơn tại Trung Quốc được dự báo sẽ dẫn đến việc giảm mạnh sản lượng phân bón nội địa. Những cải cách trong chiến lược phân bón quốc gia của Ấn Độ sẽ bắt đầu tác động đến sự tăng trưởng của nhu cầu urê tại đây. Tuy nhu cầu ở châu Mỹ La tinh và vùng hạ Sahara châu Phi đang mạnh, nhưng các chỉ báo hiện nay cho thấy nhu cầu phân bón toàn cầu trong 5 năm tới có triển vọng chỉ tăng trưởng ở mức vừa phải.
Nhu cầu phân bón toàn cầu được dự báo sẽ tăng trung bình 1,3%/năm trong thời gian từ niên vụ 2015/ 2016 đến niên vụ 2022/ 2023. Đến cuối chu kỳ dự báo này, nhu cầu phân bón được dự báo sẽ đạt 199 triệu tấn. Tiếp nối các xu hướng trước đây, nhu cầu K dự báo sẽ tăng nhanh hơn (1,8%/ năm) so với nhu cầu P (1,4%/năm) và N (1,0%/năm). Đây là kết quả của sự cải thiện liên tục các phương thức quản lý phân đạm và xu hướng bón phân cân bằng hơn ở một số khu vực trên thế giới.
Tương tự như năm trước, châu Phi là khu vực được dự báo sẽ đạt tốc độ tăng trưởng nhu cầu phân bón cao nhất, tiếp theo là khu vực Đông Âu và Trung Á (EECA), khu vực châu Mỹ La tinh. Ba khu vực này có tiềm năng tăng trưởng nông nghiệp cao nhất trong thập niên tới. Tăng trưởng nhu cầu phân bón tại Nam Á sẽ thấp hơn xu hướng trung bình của các năm trước, đặc biệt là nhu cầu phân đạm, do chính phủ Ấn Độ đang có chính sách cải thiện hiệu quả sử dụng phân urê. Nhu cầu phân bón các nước Tây Á đang có nhiều biến động trong bối cảnh địa chính trị trong khu vực.
Tại Đông Á, nhu cầu phân đạm được dự báo sẽ giảm nhẹ và nhu cầu phân lân ít thay đổi do xu hướng nhu cầu ở Trung Quốc đã đảo chiều sau một số thập niên tăng trưởng mạnh. Nhưng tổng nhu cầu phân bón ở Đông á vẫn có thể tăng do nhu cầu cao đối với phân kali ở các nước Đông Nam Á.
Tăng trưởng nhu cầu phân bón ở các khu vực phát triển được đánh giá là sẽ thấp, trong khi đó châu Đại dương và Bắc Mỹ có triển vọng tốt hơn so với Tây Âu và Trung Âu. Về mặt khối lượng, châu Mỹ La tinh, Nam Á, châu Phi và các nước khu vực EECA sẽ chiếm tổng cộng 80% mức tăng dự kiến của nhu cầu phân bón toàn cầu trong thời kỳ 2017-2022.
Tình hình cung ứng
Thị trường phân bón thế giới trong năm 2017 tương đối yếu, vì vậy chỉ mang lại lợi nhuận thấp cho ngành sản xuất phân bón. Nhìn chung, nhu cầu không cao, trong khi đó nguồn cung khá dồi dào.
Sản xuất và thương mại phân bón toàn cầu trong năm 2017 đã đạt đến những mức cao kỷ lục đối với hầu hết tất cả các hạng mục sản phẩm, ngoại trừ một số sản phẩm trong lĩnh vực phân đạm. Tình trạng dư thừa sản lượng đã càng thêm trầm trọng do nhu cầu của các lĩnh vực công nghiệp khá thấp. Về mặt nguồn cung, các đợt mở rộng công suất lớn đã diễn ra như dự báo trong năm 2017, đặc biệt là ở các nước xuất khẩu lớn.
Tổng doanh số các chất dinh dưỡng chủ yếu cho cây trồng trong năm 2017 ước tính đạt 247 triệu tấn. Doanh số phân bón chiếm 75% tổng doanh số trên và ước tính đạt 186 triệu tấn chất dinh dưỡng, tăng 0,4% so với năm 2016.
Các chính sách ngày càng thắt chặt
ở nhiều nước, các quy định cần thiết để cấp giấy phép khai thác quặng kali và quặng phốtphat cũng như các yêu cầu về an toàn đối với các nhà máy phân đạm đã trở nên chặt chẽ hơn.
Sự kết hợp giữa giá nông sản và giá phân bón tương đối thấp, sự xuất hiện của các nhà máy với công suất lớn và có khả năng tham gia xuất khẩu, cùng với triển vọng tương đối trầm lắng của sự tăng trưởng nhu cầu đã tạo áp lực lên các nhà sản xuất phân bón nội địa ở nhiều nước, dẫn đến sự gia tăng các biện pháp phòng vệ thương mại hoặc các yêu cầu cao hơn về chất lượng đối với các sản phẩm phân bón.
Tình trạng căng thẳng thương mại và các biện pháp trừng phạt kinh tế xuất hiện từ đầu năm 2018 đã tạo ra phản ứng dây chuyền đối với thương mại phân bón toàn cầu cũng như các kế hoạch đầu tư trong tương lai.
Công suất tăng mạnh
Trong thời gian 2018-2022, nhìn chung các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp phân bón toàn cầu có kế hoạch đầu tư tổng cộng gần 98 tỷ USD vào các dự án xây dựng 68 nhà máy mới, qua đó tăng công suất phân bón hiện tại lên thêm 78 triệu tấn.
Một số kế hoạch đầu tư cũng đang dịch chuyển từ các nhà máy sản xuất sang các giải pháp dinh dưỡng cây trồng, cơ sở hạ tầng phân phối, dịch vụ khách hàng và các sản phẩm giá trị gia tăng.
Nguồn cung đáp ứng nhu cầu
Nhờ xu hướng phát triển công suất được duy trì từ năm 2010, nguồn cung phân bón toàn cầu sẽ thừa khả năng đáp ứng nhu cầu trong 5 năm tới. Công suất sản xuất sẽ tăng trong cả 3 lĩnh vực chính, nhưng dự kiến công suất phân kali tăng nhanh hơn (+10% so với năm 2017), công suất axit phốtphoric và amoniăc chỉ tăng 6% và 3% tương ứng.
Tuy nhiên, trong 5 năm tới công suất phân đạm trên thế giới sẽ giảm mạnh do kế hoạch đóng cửa hàng loạt các nhà máy ở Trung Quốc.
Nhìn chung, với triển vọng tăng trưởng nhu cầu 1,3%/ năm và tăng trưởng nguồn cung 1,6%/ năm, trong thời gian trước mắt thị trường phân bón toàn cầu vẫn sẽ là thị trường dư thừa nguồn cung với tình trạng mất cân đối khác nhau trong các lĩnh vực của 3 chất dinh dưỡng chính.
Triển vọng cung cầu phân đạm
Công suất NH3 toàn cầu dự kiến sẽ tăng 3% (tăng ròng 7 triệu tấn NH3) từ 225 triệu tấn năm 2017 lên 232 triệu tấn NH3 năm 2022. Các đợt tăng công suất lớn dự kiến sẽ diễn ra tại châu Phi, Nam á và khu vực EECA. Mặt khác, kế hoạch cải cách cơ cấu trong ngành sản xuất phân đạm Trung Quốc sẽ dẫn đến việc đóng cửa hàng loạt nhà máy amoniăc ở đây.
Trong thời gian 2017-2022, nguồn cung phân đạm toàn cầu sẽ tăng trung bình 0,6%/ năm, nhưng nhu cầu sẽ tăng 1,2%/ năm. Tình trạng dưa thừa nguồn cung được dự báo sẽ đạt đỉnh cao vào năm 2019 và bắt đầu giảm dần từ niên vụ 2020/ 2021 do nguồn cung sẽ tăng chậm dần cho đến năm 2022.
Nhu cầu phân đạm sẽ tăng ở tất cả các khu vực trên thế giới, ngoại trừ châu Âu. Những khu vực có nhu cầu tăng mạnh nhất là Nam á, châu Mỹ La tinh và Đông Nam á. Tình hình này sẽ tạo cơ hội để phân bón được nhập khẩu nhiều hơn vào những khu vực có nhu cầu cao.
Urê chiếm 55% sản lượng phân đạm thế giới trong năm 2017. Công suất urê toàn cầu được dự báo sẽ tăng ròng 10 triệu tấn (+5%), đạt 226 triệu tấn vào năm 2022.
Tuy công suất urê dự kiến sẽ giảm ở Trung Quốc, nhưng các nhà máy mới sẽ được đưa vào vận hành ở Nam á, châu Phi và khu vực EECA.
Nguồn cung urê toàn cầu (sản lượng thực tế) ước tính sẽ đạt 197 triệu tấn vào năm 2022, tăng 1,1%/năm so với năm 2017.
Nhu cầu urê toàn cầu đối với tất cả các lĩnh vực sử dụng được dự báo tăng 1,6%/ năm, đạt 188 triệu tấn vào năm 2022. Nhu cầu urê sẽ tăng ở hầu hết tất cả các khu vực trên thế giới.
Triển vọng cung cầu phân lân
Nguồn cung quặng phốtphat toàn cầu năm 2022 được dự báo sẽ tăng 9% so với năm 2017, đạt 250 triệu tấn. Châu Phi và Tây á chiếm tổng cộng 80% mức tăng ròng này.
Công suất axit phốtphoric toàn cầu năm 2022 sẽ tăng 6% so với năm 2017, đạt 64,3 triệu tấn P2O5.
Công suất các sản phẩm phốtphat chế biến trên toàn cầu dự báo sẽ đạt 112 triệu tấn vào năm 2022, tăng 3% (tăng 14 triệu tấn sản phẩm) so với năm 2017. Marốc chiếm một phần ba của mức tăng này.
Nguồn cung axit phốtphoric toàn cầu sẽ tăng 1,9%/ năm trong thời gian 2017-2022, nhu cầu tăng 1,7%/ năm. Vì vậy, dư thừa axit phốtphoric sẽ tăng nhẹ đến năm 2019, sau đó ổn định cho đến năm 2022.
Triển vọng cung cầu phân kali
Công suất phân kali toàn cầu được dự báo sẽ tiếp tục tăng trong thời gian 2018-2022 với mức tăng tổng cộng 10%, đạt 64,6 triệu tấn vào năm 2022. Công suất phân kali sẽ tăng nhiều nhất tại EECA, Bắc Mỹ, Trung Quốc, nhưng sẽ giảm ở châu Âu.
Nguồn cung phân kali sẽ tăng đến 54,2 triệu tấn vào năm 2022, cao hơn 17% so với năm 2017. Bắc Mỹ sẽ là khu vực có nguồn cung phân kali với tiềm năng lớn nhất (36%) vào năm 2022, tiếp theo sau là EECA (34%), Đông á (13%) và các khu vực khác (17%).
Nhu cầu phân kali toàn cầu đối với tất cả các lĩnh vực sử dụng sẽ tăng trung bình 2%/ năm, đạt 46,2 triệu tấn K2O vào năm 2022. Tình hình cung cầu phân kali toàn cầu cho thấy sự gia tăng gấp đôi lượng dư thừa tiềm năng hàng năm (8 triệu tấn K2O) trong thời gian 2017-2022. Hơn 1/3 lượng tăng ngắn hạn về nhu cầu sẽ diễn ra ở Đông á.
Nhập khẩu phân kali sẽ tăng nhanh ở các khu vực như Nam Á, châu Mỹ La tinh và châu Phi.
Thế Nghĩa
Theo báo cáo tại Hội nghị thường niên IFA tháng 6/2018