
Giá phân lân và phân kali trên thị trường thế giới đã tăng trong suốt cả năm 2017 nhờ sự kết hợp của một số yếu tố. Nhu cầu cao đã khiến cho lượng giao hàng toàn cầu các sản phẩm lân và kali tăng lên những mức kỷ lục trong năm. Sau khi giá lân và kali giảm mạnh trong thời gian 2015/2016, một số nhà sản xuất Bắc Mỹ đã đóng cửa vĩnh viễn các nhà máy hoặc tạm thời ngừng hoạt động những nhà máy có chi phí vận hành cao. Mặt khác, giá nguyên liệu tăng cũng góp phần đẩy giá phân lân tăng cao.
Động lực tăng giá của năm 2017 đã tiếp tục được chuyển sang cho năm 2018. Tình hình cung cầu tiếp tục hỗ trợ thị trường trong những tháng đầu năm 2018. Nhưng một số yếu tố như tốc độ đưa vào vận hành các nhà máy mới, giá nông sản và tác động của chính sách môi trường mới ở Trung Quốc sẽ trở thành những động lực định hình thị trường trong năm nay.
Thị trường phân lân
Giá DAP tại New Orleans đã tăng từ dưới 300 USD/ tấn FOB đầu năm 2017 lên 365 USD/ tấn vào cuối năm. Nhưng chênh lệch giữa giá bán DAP với chi phí lưu huỳnh và amoniăc trên mỗi tấn DAP vẫn giữ nguyên không thay đổi, nằm ở phạm vi 200-225 USD/tấn trong suốt cả năm 2017. Do đó, có thể nói giá DAP trong năm chỉ tăng theo chi phí nguyên liệu.
Nhìn chung, cơ sở nền tảng của thị trường phân lân vẫn tiếp tục thuận lợi nhờ sự gia tăng nhanh hơn của nhu cầu toàn cầu, các điều chỉnh nguồn cung (chủ yếu ở Mỹ) và tốc độ đưa vào vận hành chậm hơn của các nhà máy mới ở Marốc cũng như Arập Xê-út.
Tình hình tiêu thụ
Trong năm 2017, nhu cầu phân lân đã đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn rõ rệt so với những năm trước. Sau khi tăng trưởng với tốc độ trung bình hàng năm 1,6% trong thời gian từ 2010 đến 2016, khối lượng giao hàng toàn cầu các sản phẩm phân lân dạng rắn (DAP/MAT/TNS/NPS) đã tăng 3,0%, tương đương 2,0 triệu tấn, đạt 68,3 triệu tấn trong năm 2017. Sự tăng trưởng nhu cầu diễn ra trên diện rộng, nhưng các nước châu á (không kể Trung Quốc) chiếm hơn 50% mức tăng này, Braxin chiếm 25%. Khối lượng giao hàng phân lân ở Bắc Mỹ tăng khoảng 300.000 tấn, đạt 9,7 triệu tấn - mức cao trong lịch sử của khu vực.
Khối lượng giao hàng phân lân năm 2018 cũng có triển vọng tích cực với những động lực tương tự như thị trường phân kali - cụ thể là những động lực từ nhu cầu nông nghiệp và nhu cầu kinh tế. Các chuyên gia thị trường dự báo khối lượng giao hàng phân lân toàn cầu trong năm nay sẽ tăng tiếp 2,4% (tương đương 1,6 triệu tấn), đạt tổng cộng 70,0 triệu tấn.
ấn Độ được dự kiến sẽ có nhu cầu cao và bước vào thị trường sớm do nhu cầu mạnh của người nông dân cũng như do tình trạng cạn kiệt hàng dự trữ trên toàn bộ chuỗi cung ứng, từ các cảng nhập khẩu cho đến hàng nghìn cửa hàng bán lẻ. Các nước khác ở châu á cũng sẽ đạt mức tiêu thụ cao, tuy sẽ thấp hơn so với mức tăng mạnh của năm trước. Khối lượng giao hàng phân lân đến Braxin được dự báo sẽ tiếp tục xu hướng đi lên nhờ giá đậu nành ổn định và khả năng suy yếu của đồng tiền nước này. Tại Bắc Mỹ, khối lượng giao hàng phân lân được dự kiến sẽ giảm trở về 9,5 triệu tấn trong năm nay do các đợt mua hàng trước để dự trữ đã diễn ra từ cuối năm 2017.
Triển vọng cung ứng
Về phía nguồn cung, những điều chỉnh quan trọng đã diễn ra và có khả năng sẽ tiếp tục diễn ra trong năm nay. Đặc biệt, nguồn cung phân lân tại Trung Quốc sẽ có những thay đổi lớn khi chính phủ nước này thực hiện các quy định mới về bảo vệ môi trường. Tại Mỹ, Công ty Mosaic đã công bố từ tháng 10/2017 là sẽ tạm dừng hoạt động nhà máy phân bón của mình ở Plant City. Trước đó, mỗi năm nhà máy sản xuất khoảng 1,5 triệu tấn DAP/MAP.
Mặt khác, các nhà máy mới cũng được đưa vào vận hành chậm hơn so với dự kiến. Hiện tại các nhà quan sát thị trường đang theo dõi sát sao nhà máy mới của Công ty liên doanh Maaden Waad al Shamal Phosphate (MWSPC) tại Arập Xê-út và hai nhà máy JPH 3, JPH 4 của Jorf Phosphate Hub tại Marốc.
Nhà máy của MWSPC tại Arập Xê-út bắt đầu sản xuất từ tháng 7/2017 và đã sản xuất khoảng 450.000 tấn DAP trong năm 2017. Nhưng sản lượng thực tế này chưa bằng một nửa kế hoạch ban đầu là 1,0 triệu tấn. Dự kiến, nhà máy sẽ tăng sản lượng đến 1,5-2,0 triệu tấn trong năm 2018.
Tại Marốc, Nhà máy tạo hạt JPH 3 đã được đưa vào vận hành trong mùa thu 2017, nhà máy axit phốtphoric cũng đã hoạt động từ cuối mùa hè 2017, chậm hơn 6 tháng so với kế hoạch. Nhà máy JPH 4 được dự kiến sẽ bắt đầu vận hành từ cuối năm 2017, nhưng kế hoạch này đã được hoãn sang quý II/2018. Hiện tại, các chuyên gia ước tính hai nhà máy mới của Marốc sẽ tăng dần sản lượng đến khoảng 1 triệu tấn DAP trong năm 2018.
Tóm lại, triển vọng cung cầu phân lân vẫn tiếp tục thuận lợi trong năm 2018. Nhu cầu được dự kiến sẽ tăng 1,6 triệu tấn năm. Nếu không có thay đổi về xuất khẩu của Trung Quốc, nguồn cung phân lân sẽ tăng ròng khoảng 1,0 triệu tấn. Những thay đổi về nguồn cung gồm có việc đóng cửa tạm thời nhà máy tại Plant City (- 1,5 triệu tấn), nhà máy của MWSPC tại Arập Xê-út tăng dần sản lượng (+1,5 triệu tấn), hai nhà máy JPH 3 và JPH 4 tại Marốc tăng dần sản lượng (+1,0 triệu tấn). Trong bối cảnh đó, tỷ lệ vận hành công suất của các nhà máy phân lân trên toàn cầu sẽ phải tăng 1 đến 2 bậc để có thể đáp ứng nhu cầu dự kiến. Hơn nữa, nếu các quy định mới về bảo vệ môi trường ở Trung Quốc dẫn đến suy giảm sản xuất và xuất khẩu phân lân của nước này trong năm nay, các nhà máy phân lân trên toàn cầu sẽ còn phải tăng tiếp tỷ lệ vận hành công suất.
Thị trường phân kali
Cuối năm 2017, phân kali tại New Orleans (Louisana, Mỹ) được giao dịch với giá 235 USD/tấn FOB, tăng 25 USD so với năm trước nhưng vẫn thấp hơn 40% so với mức giá đầu năm 2015. Trong khi đó, giá phân kali tại Mỹ vẫn tăng chậm hơn các nơi khác. Ví dụ, sản phẩm tương tự cuối năm 2017 tại Braxin được giao dịch với giá 265 USD/tấn, tăng 70 USD so với tháng 1/2017.
Tình hình tiêu thụ
Một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho giá phân kali tăng cao hơn là nhu cầu mạnh đã hấp thụ nguồn cung tăng thêm từ các nhà máy mới. Sự gia tăng mạnh của khối lượng giao hàng phân kali trên toàn cầu là động lực chính dẫn đến những đợt tăng giá trong năm 2017. Những số liệu sản xuất và thương mại mới đây cho thấy, tổng khối lượng giao hàng KCl toàn cầu trong năm 2017 đã tăng 7%, tương đương 4,2 triệu tấn, đạt mức kỷ lục 65,0 triệu tấn. Mức tăng thực tế này vượt xa dự báo ban đầu là 4% (2,5 triệu tấn) của một số chuyên gia trên thị trường phân bón.
Trong năm 2017, hầu hết tất cả các khu vực tiêu thụ phân kali quy mô lớn đều đạt mức tăng trưởng cao: Châu á chiếm hơn 60% tăng trưởng tiêu thụ của toàn cầu. Thị trường Braxin ghi nhận mức tăng tiêu thụ 900.000 tấn. Tại Bắc Mỹ, khối lượng giao hàng phân kali ước tính tăng khoảng 400.000 tấn, đạt tổng cộng 9,8 triệu tấn. Các nhà sản xuất Bắc Mỹ đã cung ứng khoảng 7,9 triệu tấn phân kali cho thị trường nội địa, trong khi đó nhập khẩu từ các nhà sản xuất ở nước ngoài đã tăng lên mức kỷ lục 1,9 triệu tấn, vượt mốc 1,5 triệu tấn của năm 2011.
Mặc dù đã tăng mạnh trong năm 2017, khối lượng giao hàng phân kali được dự báo sẽ tiếp tục tăng trong năm nay. Một số nhà phân tích lo ngại lượng tiêu thụ trong năm nay sẽ giảm sau khi đã tăng mạnh trong năm trước. Đây là những lo ngại có cơ sở và chắc chắn ở một số khu vực nhu cầu phân kali đã được đáp ứng trước một phần nhờ lượng tiêu thụ của năm trước. Tuy nhiên, thông tin thực tế đầu năm 2018 cho thấy hàng dự trữ ở các kênh phân phối tại hầu hết các nước đều đang ở mức trung bình hoặc thậm chí thấp hơn trung bình. Nhu cầu của người nông dân tiếp tục duy trì ổn định. Các vụ thu hoạch kỷ lục trong năm qua đã lấy đi những lượng lớn kali từ đất nông nghiệp ở khắp các nơi trên thế giới. Theo kết quả khảo sát mới đây, người nông dân đang tiếp tục duy trì hoặc tái bổ sung hàm lượng kali trong đất, đặc biệt là trong những tháng đầu năm 2018, khi giá phân kali vẫn còn ở mức thấp.
Nhìn chung, các động lực kinh tế cho sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ phân bón vẫn giữ ở mức cao đối với phần lớn các loại cây trồng và các khu vực địa lý, tuy những động lực như vậy không còn mạnh như cách đây vài năm. Những dữ liệu về tỷ lệ giữa chỉ số giá các chất dinh dưỡng cây trồng và chỉ số giá nông sản tại Mỹ cho thấy sức mua vật tư nông nghiệp của người nông dân ở đây đang đạt mức trung bình.
Triển vọng cung ứng
Với những dữ liệu hiện nay, các chuyên gia phân tích thị trường dự báo khối lượng giao hàng MOP toàn cầu sẽ tăng 1,4 triệu tấn, từ 65 triệu tấn KCl năm 2017 lên 66,4 triệu tấn trong năm nay. Tuy nhiên, tại Bắc Mỹ khối lượng giao hàng phân kali sẽ giảm từ 9,8 triệu tấn trong năm 2017 xuống 9,5 triệu tấn trong năm nay do nhiều nhà phân phối đã mua phân kali từ cuối năm trước. Dự báo nói trên dựa trên giả thiết là người nông dân Mỹ sẽ gieo cấy 89,5-90,5 triệu mẫu ngô, 91-92 triệu mẫu đậu nành và 45-46 triệu mẫu lúa mì trong năm nay, với tỷ lệ bón phân duy trì ổn định.
Về phía nguồn cung, năm 2017 các dự án kali mới trên thế giới đã cung ứng ra thị trường khối lượng phân kali thực tế thấp hơn so với dự báo. Công ty K+S cho biết, nhà máy Bethune của Công ty tại Nam Saskatchewan (Canađa) ước tính sẽ sản xuất 500.000 tấn KCl trong năm 2017, thấp hơn mức dự báo 600.000-700.000 tấn trước đó. Ban Giám đốc K+S cũng công bố tổng khối lượng phân kali dự kiến sẽ sản xuất trong năm 2018 là 1,7 triệu tấn. Trong năm 2017, do các máy ép chưa được đưa vào vận hành nên Công ty đã không cung cấp sản phẩm phân kali phối trộn cho thị trường Mỹ và Braxin.
Tại Nga, Công ty EuroChem đang triển khai hai dự án quy mô thế giới, đó là Nhà máy Usolskiy tại vùng Perm và dự án Volgakality tại vùng Volgograd. Nhưng trong năm 2017 các dự án này đã không cung ứng sản phẩm ra thị trường. Ban Giám đốc EuroChem cho biết, hai dự án dự kiến sẽ đạt công suất kết hợp 1,1 triệu tấn KCl trong năm 2018, nhưng cũng nhấn mạnh sản lượng thực tế năm 2018 có khả năng sẽ chỉ đạt tổng cộng 500.000 tấn. Mỏ Usolskiy của EuroChem được dự kiến sẽ đi vào vận hành cuối năm 2017, mặc dù vậy cuối cùng đã bị hoãn đến tháng 3/2018. Mặt khác, dự án Volgakality dự kiến sẽ không bắt đầu vận hành thương mại cho đến cuối năm nay hoặc đầu năm 2019.
Tóm lại, có thể nói tình hình cung cầu phân kali sẽ ở mức cân bằng trong năm nay nếu những nhà máy mới đi vào vận hành theo đúng tiến độ. Nhu cầu phân kali toàn cầu dự kiến sẽ tăng khoảng 1,4 triệu tấn, trong khi đó các thay đổi ròng về mặt sản lượng sẽ khiến cho nguồn cung tăng khoảng 1,5 triệu tấn. Những thay đổi về nguồn cung gồm có việc đóng cửa nhà máy MOP tại Mỏ Boulby của Công ty ICL (-0,2 triệu tấn), tăng sản lượng Mỏ Bethune của Công ty K+S (+1,2 triệu tấn), đưa vào vận hành các mỏ của Công ty EuroChem (+0,5 triệu tấn). Mặt khác, sự kết hợp giữa các đợt mua hàng trước và sự trì hoãn tiến độ của các dự án đã gây ra tình hình cung cầu sít sao trong những tháng đầu năm 2018.
Những động lực chính của thị trường phân bón hiện nay
Một trong những yếu tố tác động đến giá phân bón nói chung là giá nông sản hàng hóa. Hiện đang có triển vọng ngày càng cao là các nước Nam Bán cầu sẽ đạt được những vụ thu hoạch lớn trong năm. Nếu các nước Bắc Bán cầu cũng đạt sản lượng nông sản cao vào cuối năm nay, giá nông sản có thể giảm và ảnh hưởng bất lợi đến nhu cầu phân lân cũng như phân kali, đặc biệt vào thời gian cuối năm.
Một yếu tố động lực quan trọng khác là tốc độ đưa vào vận hành các nhà máy mới. Hiện tại, các nhà máy phân lân và phân kali đang được đưa vào vận hành chậm hơn so với những kế hoạch công bố ban đầu. Nhưng trong thời gian qua các mỏ mới đã liên tục đạt được tiến bộ trong quá trình triển khai, các điểm tắc nghẽn trong dây chuyền dần được giải quyết, hoạt động của các nhà máy sẽ đi vào ổn định. Trong lĩnh vực sản xuất phân bón, quá trình này thường mất nhiều thời gian ở những dự án quy mô lớn, nhưng các nhà máy mới cuối cùng sẽ đạt được công suất thiết kế theo kế hoạch.
Yếu tố cuối cùng là chính sách môi trường mới và chặt chẽ hơn của Trung Quốc, đây là yếu tố có thể đóng vai trò thay đổi cục diện thị trường. Những chính sách mới của Trung Quốc đã dẫn đến sự sụt giảm mạnh sản lượng và xuất khẩu phân đạm của nước này. Tình trạng sụt giảm tương tự trong sản lượng và xuất khẩu phân lân cũng có thể sẽ diễn ra.
Thế Nghĩa
Theo World Fertilizer, 3/2018