
Những cỗ máy phân tử
Giải thưởng Nobel hóa học 2016 đã được trao cho ba nhà hóa học Ben L.Feringa, Jean - Pierre Sauvage và J. Fraser Stoddart vì công trình của họ trong lĩnh vực chế tạo những cỗ máy phân tử. Bộ ba nhà khoa học này đã đặt nền móng cho một lĩnh vực mà ngày nay đang nảy mầm phát triển. Thời gian qua, các nhà khoa học đã tiếp tục làm việc dựa trên nền móng đó và đạt được một số kết quả đáng chú ý.
Các nhà khoa học tại ĐHTH Manchester (Anh) đã phát triển người máy phân tử, có thể nhặt lên những kiện hàng phân tử, vận chuyển chúng đến vị trí mới và thả xuống ở đó. Người máy này được chế tạo từ một bệ có gắn cánh tay quay với nhóm thiol ở đầu gắp. Cánh tay đó có thể cho liên kết với kiện hàng 3-mercaptopropanehydrazid và đẩy nó từ một đầu của bệ đến đầu kia bằng cách thay đổi pH. Kiểu động tác chính xác này là chưa từng có tiền lệ ở phạm vi nhỏ như vậy. Nhóm nghiên cứu hy vọng những động tác đó sẽ dẫn đến những tiến bộ tiếp theo trong lĩnh vực người máy phân tử.
Nhóm nghiên cứu nói trên cũng tạo ra một cỗ máy phân tử catenan, ở đó một vòng tròn nhỏ quay liên tục theo chiều kim đồng hồ xung quanh một vòng tròn lớn hơn nhờ tương tác với nhiên liệu hóa học 9-florenylmethoxycacbonyl clorua. Hệ thống có thể cung cấp năng lượng cho động cơ protein bên trong các tế bào sống.
Các nhà nghiên cứu khác đã tái tạo lại hoạt động của ribosom - thành phần quan trọng trong tế bào sống. Các nhà khoa học Anh tại Đại học Oxford và Warwick đã chế tạo một hệ thống các sợi DNA dạng kẹp tóc, có thể lắp ghép các chuỗi peptit bằng cách liên kết với chúng và tự lắp đặt thành các chuỗi DNA đã được lập trình trước. Trong tương lai, những hệ thống tương tự có thể giúp cung cấp năng lượng và điều khiển người máy phân tử.
Phần mềm máy tính hỗ trợ tổng hợp hóa học
Năm 2016, một số nhà hóa học đã tập trung khảo sát khả năng của máy vi tính trong việc chuyển đổi phương thức mà chúng ta tiến hành các phản ứng hóa học.
Một phần mềm vi tính mới do các nhà khoa học tại Viện KHCN quốc gia Ulsan (Hàn Quốc) và Viện Hàn lâm khoa học Ba Lan phối hợp phát triển có thể giúp lập kế hoạch các phản ứng tổng hợp mới trong thời gian cực ngắn mà không cần phải tra cứu hàng trăm trang tài liệu. Phần mềm Chematica này lập sơ đồ của hơn 10 triệu hóa chất và phản ứng giữa chúng. Khi nhập phân tử đích, chỉ trong vài giây hệ thống sẽ tìm ra quy trình phản ứng tối ưu, dựa trên chi phí, nguồn cung hóa chất nguyên liệu và số bước phản ứng. Một phần mềm khác của nhóm sử dụng hơn 20.000 quy tắc hóa học đã mã hóa để đề xuất các phản ứng tổng hợp mới. Phần mềm này đã được sử dụng để lập kế hoạch toàn bộ quá trình tổng hợp epicolacton, một sản phẩm phức trong tự nhiên.
Một nhóm nghiên cứu tại ĐHTH Nottingham Malaysia đã sử dụng phương pháp học máy để dự báo điều kiện tối ưu cho các phản ứng hóa học. Họ phát triển phương pháp vi tính với khả năng thiết kế các chất lỏng ion thu giữ cacbon, đồng thời dự báo nhiệt độ và áp suất hoạt động tốt nhất của chúng, chi phí tổng hợp chúng cũng như độc tính và tính chất ăn mòn của chúng.
Các nhà nghiên cứu tại Viện công nghệ Massachusetts (Mỹ) đã đi xa hơn, họ kết hợp phương pháp học máy với hóa học thực hành để tạo ra nhà hóa học người máy. Đây là một thiết bị phản ứng dòng chảy tự động, có thể tự học hỏi từ những sai lầm và tối ưu hóa điều kiện của phản ứng xúc tác dựa trên kết quả thí nghiệm trước đó.
Nhà máy mini, sản xuất dược phẩm theo yêu cầu
Các nhà sản xuất dược phẩm thường sản xuất thuốc theo mẻ trong các nhà máy lớn. Nhưng hiện nay một xu hướng mới là giảm chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng bằng cách sử dụng những hệ thống dòng chảy liên tục ở quy mô nhỏ để sản xuất dược phẩm theo yêu cầu.
Năm 2016, các nhà nghiên cứu thuộc Viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ) đã thiết kế một nhà máy mini với kích thước bằng một chiếc tủ lạnh để sản xuất thuốc. Hệ thống này bao gồm một thiết bị phản ứng cùng với các bộ phận kết tinh, lọc, tái kết tinh và pha chế ở cuối dòng. Nó cũng có một môđun phân tích hóa học và tính toán để kiểm tra chất lượng, đánh giá quá trình. Nhà máy mini này có thể sản xuất hàng trăm hoặc thậm chí hàng nghìn liều thuốc sau mỗi chu trình khoảng 2 giờ. Đây là thiết bị đặc biệt hữu ích để sản xuất những loại thuốc có thời gian bảo quản ngắn, dùng cho những nhóm nhỏ bệnh nhân hoặc có thể được sử dụng để đáp ứng những nhu cầu đột xuất.
Quá trình sản xuất theo mẻ truyền thống thường bị hạn chế về công suất do khó làm nguội các bình chứa lớn, nhưng hệ thống dòng chảy liên tục cho phép thực hiện an toàn những phản ứng sinh nhiều nhiệt.
Khi nhà máy mini nói trên được công bố tháng 4/2016, ban đầu phần lớn các nhà hóa học đều không tin có thể kết hợp những quá trình với phạm vi xử lý rộng như vậy vào một thiết bị nhỏ. Nhưng từ đó đến nay các nhà khoa học Massachusetts còn giảm tiếp đến 40% kích thước của hệ thống trên bằng cách phát triển các thành phần thiết bị nhỏ hơn và dễ nạp tải hơn, đồng thời giảm kích thước của máy bơm và thực hiện một số thay đổi khác. Phiên bản mới nhất của thiết bị trên có thể sản xuất những loại dược phẩm phức tạp hơn so với những phiên bản trước. Các nhà phát minh đang hợp tác với một công ty dược phẩm để thương mại hóa công nghệ đã đăng ký sáng chế nói trên.
Phát hiện đầu tiên về vi khuẩn có thể phân hủy PET
Tuy PET là một trong những chất dẻo được tái chế nhiều nhất, nhưng trên thế giới mỗi năm vẫn có hàng triệu tấn PET được đưa đi chôn lấp. Nguyên nhân là do các liên kết este của PET rất mạnh, có khả năng chống lại các tác động phân hủy. Tại Mỹ, với hoạt động tái chế rất phát triển hiện nay người ta cũng chỉ có thể tái chế được gần một nửa lượng PET phế thải.
Nhưng chính bã của các nhà máy tái chế chất dẻo đã gợi ý giải pháp cho vấn đề này. Khi nghiên cứu bã chất dẻo tại một cơ sở tái chế chai nhựa PET ở Sakai (Nhật Bản), các nhà khoa học Viện Công nghệ Kyoto đã phát hiện một loại vi khuẩn có khả năng sử dụng PET làm nguồn cacbon và năng lượng, họ đặt tên cho chúng là Ideonella sakaiensis. Đây là lần đầu tiên trên thế giới người ta phát hiện được một loại vi khuẩn có khả năng tiêu hóa PET.
Khi sản xuất chai PET từ PET đã qua sử dụng, chất dẻo này cần được thủy phân thành các monome, nhưng đây là quá trình cần có nhiệt độ và áp suất cao. Trong khi đó, vi khuẩn Ideonella sakaiensis sử dụng hai enzym để cắt nhỏ polyme ở nhiệt độ rất nhẹ nhàng, chỉ khoảng 30oC, nhờ đó nó tạo điều kiện thu hồi các monome và etylen glycol từ PET.
Hiện tại, Ideonella sakaiensis cần phải được điều chỉnh thêm để có thể xử lý những lượng lớn phế thải PET trên thế giới: Vi khuẩn này chỉ ưa chuộng PET vô định hình mà không thích PET tinh thể (thường được sử dụng ở phần lớn các sản phẩm PET), hơn nữa các enzym còn hoạt động quá chậm nên chưa thể đưa ra áp dụng ở quy mô công nghiệp.
Kim loại lỏng với những ứng dụng thú vị
Trong thời gian dài từ trước đến nay, kim loại lỏng vẫn được xem như một loại vật liệu hiếm và kỳ lạ của khoa học. Năm 2016, dạng vật liệu này đã trở thành tiêu điểm thu hút sự chú ý với những ứng dụng mới, ví dụ dụng cụ điện tử mềm dẻo co giãn rất tốt, có thể sử dụng cho các thiết bị cầm tay và thiết bị cấy ghép trong cơ thể.
Nhóm nhỏ các vật liệu khác thường nói trên chủ yếu là gali và một vài hợp kim của nó. Khi đưa ra ngoài không khí, vật liệu lỏng này tự tạo ra lớp màng oxit mỏng trên bề mặt, giúp ổn định cơ học các giọt kim loại và các mẫu với hình dạng tùy ý. Nếu bị va đập, màng mỏng oxit sẽ vỡ ra, kim loại tạm thời chảy lỏng cho đến khi lớp màng mới lại được tạo ra trên bề mặt.
Một nhóm nghiên cứu tại ĐHTH North Carolina (Mỹ) đã sử dụng tính chất đặc biệt của kim loại lỏng để chế tạo những sợi dây eGain dày 10 mm, bọc polyme. Đây là hỗn hợp eutectit của gali và indi, có dạng lỏng ở nhiệt độ phòng. Khác với dây điện bình thường, những sợi dây làm bằng eGain có thể dễ dàng được kéo dài, uốn cong và định hình mà vẫn giữ nguyên độ dẫn điện.
Trong khi đó, các nhà khoa học tại Viện Công nghệ liên bang Thụy Sĩ đã tìm ra phương pháp chế tạo vật liệu hai pha, bao gồm các cụm AuGa2 dạng rắn xen kẽ với các giọt gali lỏng cỡ micro. Họ sử dụng vật liệu này để chế tạo một loại màng mỏng với các lớp LED và cảm biến xếp lên nhau. Khi gắn vào găng tay, màng mỏng này cho phép theo dõi những chuyển động tinh vi của ngón tay.
Tại ĐHTH bang Iowa (Mỹ), các nhà khoa học đã khảo sát sự hình thành tự phát của màng mỏng oxit bao gồm bismut-inđi-thiếc và các hợp kim liên quan, có tác dụng giữ cho các giọt kim loại lỏng cỡ micro không bị đông cứng lại, ngay cả ở nhiệt độ dưới điểm nóng chảy. Các nhà nghiên cứu đã cho thấy, khi chịu tác động một lực nhỏ màng mỏng của các giọt này sẽ vỡ ra, khiến cho kim loại chảy lỏng một lúc ngắn trước khi lớp màng mới hình thành. Họ áp dụng tính chất này để liên kết các chi tiết kim loại với nhau ở nhiệt độ phòng - trên thực tế đây là quá trình hàn không cần nhiệt.
Vật liệu 2D
Năm 2016, nhóm các vật liệu 2D tương tự như graphen đã nhận được một số thành viên mới. Dạng 2 chiều đầu tiên của boron đã được tổng hợp. Một thành viên mới khác là antimon đơn lớp, bền trong nước - đây là tính chất khác thường đối với các vật liệu 2D.
Các nhà khoa học tại ĐHTH Utah (Mỹ) đã phát minh một loại vật liệu bán dẫn 2D mới, được ví như một cuộc cách mạng trong lĩnh vực điện tử học. Chất bán dẫn mới này cho phép điện tích di chuyển nhanh hơn nhiều, nhờ đó tăng hiệu suất của bộ xử lý máy tính và các thiết bị di động, hơn nữa còn giúp giảm tiêu thụ năng lượng. Bí mật nằm ở thành phần hóa học của vật liệu mới này là hợp chất SnO. Vật liệu 2D siêu mỏng này tốt hơn nhiều so với vật liệu 3D thông thường, vì vật liệu 3D cho phép điện tử di chuyển theo mọi hướng, làm giảm hiệu suất của thiết bị. Đây là vật liệu bán dẫn 2D đầu tiên được ứng dụng thực tế trong ngành điện tử.
Nhóm nghiên cứu tin rằng vật liệu mới này có tính ứng dụng cao, có thể dẫn đến việc sản xuất các bộ vi xử lý máy tính, bóng bán dẫn và điện thoại thông minh thế hệ mới. Vật liệu mới siêu mỏng nên nhiều bóng bán dẫn có thể cùng được tích hợp trong một con chip, làm tăng hiệu suất xử lý, khiến các thiết bị điện tử hoạt động tốt hơn, nhanh hơn, tiêu thụ ít năng lượng hơn. Tính năng này thật sự rất hữu ích cho các thiết bị y tế.
Những tiến bộ trong lĩnh vực xúc tác
Năm 2016 đã chứng kiến một số tiến bộ trong lĩnh vực các phản ứng xúc tác.
Các nhà khoa học tại ĐHTH Southern California (Mỹ) đã phát triển hệ thống xúc tác có khả năng sản xuất metanol trực tiếp từ CO2 trong môi trường có hàm lượng CO2 rất thấp - đây là bước tiến quan trọng hướng tới mục tiêu thu giữ CO2 trong khí quyển. Trong phương pháp này, không khí được sục qua dung dịch chứa các chất hấp phụ có khả năng thu giữ CO2, sau đó kết hợp nó với hydro nhờ xúc tác ruteni, tạo thành metanol. Nhóm nghiên cứu hy vọng quy trình này có thể được nâng cấp để sản xuất nhiên liệu và các sản phẩm hữu ích khác từ CO2 thu giữ trực tiếp trong không khí.
Một chất xúc tác mới của các nhà khoa học tại ĐHTH Princeton (Mỹ) cho phép dán nhãn dược phẩm bằng đồng vị phóng xạ tritium của hydro, đồng thời giúp giảm thiểu lượng phế thải phóng xạ. Nó cũng tạo điều kiện dán nhãn các vị trí phân tử mà trước đây không thể tiếp cận, nhờ đó mở ra những phương pháp mới để thử nghiệm độ an toàn và hiệu quả của dược phẩm.
Các nhà nghiên cứu tại ĐHTH Queen Mary (Anh) đã sử dụng đồng xu một penny thay cho dây đồng để xúc tác phản ứng đồng trùng hợp. Kết quả cho thấy, những đồng xu penny đã qua sử dụng có hiệu quả xúc tác cao hơn và rẻ tiền hơn dây đồng nếu tính theo giá đồng trên thị trường.
Tại Serbia, các nhà khoa học tại ĐHTH Kragujevac đã chứng minh nước chanh có thể thay thế các chất xúc tác kim loại đắt tiền khi điều chế các phân tử có hoạt tính sinh học. Họ đã điều chế quinoxalin và benzoxazin với hiệu suất cao, sử dụng axit xitric trong nước chanh làm dung môi và đồng thời là chất xúc tác sinh học.
Kích hoạt và chuyển hóa liên kết C-H
Một phương pháp tổng hợp hữu cơ ra đời trong năm nay đang có triển vọng là sẽ có phạm vi ứng dụng rộng lớn khác thường. Đây là phương pháp do các nhà khoa học tại Viện nghiên cứu Scripps (California, Mỹ) phát triển sau 14 năm nỗ lực nghiên cứu, nó sẽ giúp đạt được mục tiêu mà các nhà hóa học hữu cơ đã phấn đấu từ lâu: Kích hoạt các liên kết C-H cụ thể trong các hợp chất hữu cơ và chuyển hóa chúng bằng tác động xúc tác và chọn lọc đối ảnh thành các liên kết C-C hoặc các dẫn xuất khác.
Do nguồn các liên kết C-H trên Trái Đất - các hợp chất hữu cơ - rất đa dạng và phong phú, phương pháp trên có tiềm năng sẽ được áp dụng rộng rãi.
Trước đây, các nhà hóa học tổng hợp hữu cơ đã phát triển các phương pháp kích hoạt một số dạng của liên kết C-H, ví dụ bằng cách lắp đặt trước các nhóm hoạt hóa vào chất nền. Nhưng họ vẫn chưa đạt được khả năng tác động vào các nhóm metylen chưa hoạt hóa để từ đó tạo ra các dẫn xuất.
Theo một chuyên gia về tổng hợp bất đối xứng, nhóm nghiên cứu California đã làm được một việc mà từ trước đến nay vẫn bị coi là bất khả thi.
Các nhà khoa học California đã tiếp tục phát triển phương pháp của mình và áp dụng nó để tạo ra các tâm không đối xứng gần các nhóm chức khác. Họ cũng đang xem xét việc chuyển giao công nghệ mới cho một công ty phát triển các sản phẩm hóa học.
Cảm biến có thể mang theo người - mốt mới của năm 2016
Các dụng cụ tập luyện cá nhân và ứng dụng trên điện thoại thông minh cho phép người sử dụng theo dõi nhịp tim, huyết áp, khoảng cách chạy khi tập luyện. Một số nhà nghiên cứu muốn đi xa hơn và phát triển những dụng cụ có khả năng phân tích hóa chất trong mồ hôi người hoặc trong môi trường để theo dõi sức khỏe của người sử dụng và hiệu quả của các bài tập thể lực, hoặc đánh giá rủi ro phơi nhiễm hóa chất. Trong năm 2016, có 3 dụng cụ như vậy đã được phát triển:
- Miếng dán graphen có thể đo hàm lượng glucoza trong mồ hôi người sử dụng nhờ phản ứng điện hóa có sự tham gia của glucoza oxidaza. Những nhà sáng chế dụng cụ này tại ĐH Xơ-un (Hàn Quốc) cũng muốn liên kết miếng dán này với các vi kim để cấp thuốc điều trị tiểu đường qua da, giúp bệnh nhân tự kiểm soát mức đường huyết.
- Tấm PET mềm dẻo mang theo bảng mạch điện tử và cảm biến để phát hiện muối, lactat, glucoza trong mồ hôi. Dụng cụ này có thể cho phép người sử dụng nhận được cảnh báo về các triệu chứng như mất nước, co cứng cơ hoặc thậm chí là dấu hiệu của bệnh tiểu đường. Những nhà sáng chế dụng cụ này tại ĐHTH California (Mỹ) cho rằng có thể sản xuất nó với giá chỉ khoảng 10 USD.
- Các nhà hóa học tại Viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ) đã thiết kế một chiếc vòng đeo tay có thể phát hiện các hợp chất trong vũ khí hóa học ở hàm lượng chỉ vài phần tỷ. Dụng cụ này sử dụng các ống nano cacbon ngâm trong chất lỏng ion, chúng thay đổi độ dẫn điện khi có mặt các phân tử có ái lực với điện tử.
Bổ sung kho vũ khí chống vi khuẩn
Cuộc chiến giữa con người và vi khuẩn truyền nhiễm vẫn tiếp tục diễn ra quyết liệt trong năm 2016. Năm qua, con người đã tiến thêm một bước khi hai nhóm nghiên cứu làm sống lại các loại vũ khí chống vi khuẩn của chúng ta.
Năm 2016, các nhà hóa học tại ĐHTH Harvard (Mỹ) đã áp dụng phương pháp tổng hợp hoàn toàn để tạo ra gần 1000 hợp chất mới thuộc nhóm macrolid. Macrolid là nhóm thuốc kháng sinh có vòng lacton từ 12 - 17 nguyên tử cacbon, thường được dùng với tên thuốc gốc rất quen thuộc là erythromycin. Hiện nay nhóm thuốc này vẫn được sử dụng phổ biến để điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp, nhiễm trùng da, mô mềm.
Trong số các macrolid mà các nhà khoa học Harvard đã tổng hợp, có nhiều hợp chất có hoạt tính cao chưa từng thấy chống lại các mầm bệnh gram âm, kể cả Escherichia coli (gây tiêu chảy) và Klebsiella (gây viêm phổi) đã kháng lại một số thuốc kháng sinh phổ biến.
Đồng thời, các nhà khoa học tại ĐHTH Tubingen (Đức) đã sàng lọc các vi khuẩn trong mũi của con người và phát hiện một hợp chất mà họ đặt tên là lugdunin, có khả năng tiêu diệt tụ cầu vàng Staphylococcus aureus (gây các bệnh nhiễm trùng như chốc lở, viêm phổi, viêm tủy xương,...). Lugdunin là một peptit mạch vòng, do tụ cầu Staphylococcus lugdunensis sản sinh ra, nó có tác dụng ngăn không cho Staphylococcus aureus tụ tập trong mũi người. Đây là một thuốc kháng sinh hạng mới và là loại đầu tiên được tạo ra từ những vi khuẩn sống chủ yếu ở con người. Phát hiện này có thể sẽ khuyến khích các nhà khoa học tiếp tục tìm kiếm trong cơ thể chúng ta để phát hiện những vũ khí mới trong cuộc chiến chống lại những kẻ xâm nhập nhỏ bé nhưng vô cùng nguy hiểm.
Những tiến bộ trong cuộc chiến chống virut Zika
Tháng 1/2016, Tổ chức Y tế liên Mỹ công bố sự gia tăng đáng báo động của các trường hợp dị tật đầu nhỏ ở trẻ sơ sinh tại Braxin, xu hướng này trùng hợp với sự lan truyền của muỗi nhiễm virut Zika ở đất nước này. Ngay sau đó, Tổ chức Y tế thế giới WHO đã tuyên bố sự bùng phát của virut Zika là một tình huống khẩn cấp về y tế toàn cầu.
Các phòng thí nghiệm trên khắp thế giới đã hối hả bắt tay vào nghiên cứu virut Zika và đã đạt được nhiều tiến bộ quan trọng. Các nhà khoa học đã sắp xếp được bộ gen của virut, giải quyết vấn đề cấu trúc ba chiều của lớp vỏ bảo vệ virut, theo dõi virut qua nhau thai, xác định các vật chủ tiềm năng và các protein virut tham gia vào việc lây nhiễm, họ cũng thực hiện các sàng lọc ban đầu để tìm ra những phân tử có thể ngăn cản tương tác của virut.
Tuy còn nhiều việc phải làm để bảo vệ phụ nữ có thai cũng như những đứa trẻ chưa ra đời, nhưng đã có những lý do để chúng ta có thể lạc quan: Hàng chục công cụ chẩn đoán để xác định mầm bệnh và một số loại vắc-xin cho virut Zika hiện đang được thử nghiệm lâm sàng ở người.
Những đột phá trong sản xuất vật liệu mới từ nguyên liệu sinh học
Khi giá dầu mỏ giảm xuống chỉ còn bằng một nửa so với vài năm trước, năm 2016 có vẻ như sẽ ít có khả năng là một năm thành công của hóa chất đi từ nguyên liệu sinh học. Nhưng trên thực tế, trong năm qua một số công ty công nghệ sinh học đã đạt được những mốc phát triển quan trọng về mặt thương mại.
Tháng 3/2016, Công ty Avantium (Hà Lan) và Tập đoàn BASF (Đức) đã liên kết xây dựng nhà máy sản xuất furandicacboxylic axit (FDCA) trị giá nửa tỷ USD tại Bỉ. Nhà máy này sử dụng các chất xúc tác của Avantium để sản xuất FDCA từ đường. FDCA là nguyên liệu để sản xuất polyetylen furanoat (PEF) - một loại polyeste được dự kiến sẽ thay thế PET để sản xuất vỏ chai đựng nước giải khát cũng như các loại bao bì khác. Công ty Avantium đã hợp tác với các công ty Coca-Cola và Danone từ nhiều năm nay trong lĩnh vực này. Tháng 9/2016, Avantium cũng công bố kế hoạch sản xuất polyme và màng mỏng PEF tại Nhật Bản. PEF không chỉ cạnh tranh về mặt môi trường với PET dẫn xuất từ dầu mỏ. Vật liệu mới này có các tính chất cản oxy tốt hơn gấp 10 lần so với PET, nhờ đó nó có thể được sử dụng để sản xuất các chai đựng bia rất thuận tiện.
Trong năm 2016, Tập đoàn hóa chất DuPont và Tập đoàn nông nghiệp ADM đã hợp tác phát triển công nghệ sản xuất furandicacboxylic mettyl este (FDME) từ fructoza. FDME là một trong 12 khối thành phần mà Bộ Năng lượng Mỹ xác định là có thể được chuyển hóa thành các hóa chất giá trị cao đi từ nguyên liệu sinh học, có thể được áp dụng trong nhiều ứng dụng giá trị cao.
Trong những nỗ lực thay thế nguyên liệu hóa chất đi từ dầu mỏ, Công ty Anellotech (Mỹ) đã tiến thêm một bước bằng cách phát triển quy trình sản xuất các hóa chất thơm như benzen, toluen và xylen từ sinh khối lignoxeluloza. Năm 2016, Công ty đã đưa vào vận hành nhà máy pilot tại Silsbee (Texas, Mỹ). Công nghệ của Công ty cũng nhận được sự hỗ trợ và vốn đầu tư từ các công ty Nhật Bản như Toyota.
HS
Theo Chemical & Engineering News, 12/2016