Một số điểm nóng trên thị trường phân bón thế giới

11:08 SA @ Thứ Năm - 14 tháng 11, 2019

Ấn Độ giảm sản lượng DAP và chuyển sang NPK

Tình trạng giảm sản lượng DAP nội địa tại ấn Độ là một trong những sự kiện quan trọng ảnh hưởng đến thị trường phân bón thế giới trong năm 2018 và đã khuyến khích các công ty kinh doanh phân bón tại đây tăng cường nhập khẩu.

Nhập khẩu DAP của Ấn Độ trong năm tài chính 2018 đã tăng đáng kể, đạt 6 triệu tấn so với 4,05 triệu tấn năm trước. Động lực cho nhu cầu nhập khẩu là chi phí nguyên liệu ngày càng cao, đặc biệt là axit phốtphoric, khiến cho sản xuất DAP nội địa gần tiến tới mức thua lỗ. Công ty quốc gia Marốc là OCP đã liên tiếp thỏa thuận tăng giá trong các hợp đồng axit phốtphoric hàng quý của mình. Giá axit phốtphoric đã tăng từ 567-572 USD/tấn P2O5 lên 768 USD/tấn P2O5 vào quý IV/2018. Chi phí sản xuất tăng đã dẫn đến tình trạng giảm sản lượng DAP của Ấn Độ khi các nhà sản xuất chuyển hướng sang sản xuất NPK với nhu cầu axit thấp hơn. Sản lượng DAP của Ấn Độ trong thời kỳ từ tháng 4 đến tháng 12/2018 đã giảm 30% so với năm trước, chỉ đạt 2,59 triệu tấn.

Quá trình chuyển dần từ sản xuất DAP sang sản xuất NPK của các nhà sản xuất nội địa Ấn Độ đã trở nên rõ rệt từ cuối năm 2017. Nhưng quá trình này chỉ thực sự tăng tốc từ đầu năm tài chính 2018 (tháng 4/2018). Tổng sản lượng NPK trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 11/2018 đã đạt 6,08 triệu tấn, tăng 9% so với năm trước.

Nhưng điều quan trọng là sự tập trung vào sản xuất NPK đã trùng hợp với sự gia tăng nhu cầu trong cùng thời kỳ. Doanh số NPK trong thời kỳ từ tháng 4 đến tháng 11/2018 đã tăng 17,9% so với năm trước, đạt 6,31 triệu tấn. Nhập khẩu NPK trong cùng thời kỳ chỉ tăng nhẹ 8,3%, đạt 404.000 tấn, do thị trường nhập khẩu Ấn Độ chủ yếu tập trung mua DAP.

Tại Ấn Độ có ít nhất 4 dự án mở rộng công suất NPK đã được lập kế hoạch. Công ty Deepak dự kiến sẽ nâng công suất tại nhà máy Taloja lên thêm 900.000 tấn/năm, đạt 1,2 triệu tấn/năm trong thời kỳ 2018-2019. Công suất của nhà máy NPK Tuticorin thuộc Công ty Greenstar cũng sẽ tăng thêm 600.000 tấn/ năm, đạt 1,2 triệu tấn/năm. Công ty PPL có kế hoạch nâng công suất tại nhà máy Paradeep lên thêm 400.000 tấn/ năm, đạt 1,7 triệu tấn/ năm, trong khi đó Công ty MCFL dự kiến sẽ đưa vào vận hành dây chuyền mở rộng công suất 800.000 tấn/ năm để đạt 1,1 triệu tấn/ năm vào năm 2022.

Tuy nhiên, các nhà cung ứng NPK của Nga vẫn tỏ ra lạc quan là sẽ tiếp tục bán được sản phẩm vào Ấn Độ mặc dù công suất nội địa của nước này đang tăng. Công ty Petrochimia Gresik tại Nga cũng đang có kế hoạch mở rộng công suất NPK, với sản phẩm có thể cạnh tranh với sản phẩm của ấn Độ trong phân khúc 20-20-0+13S.

Giá lưu huỳnh tại Trung Quốc tăng

Tại Trung Quốc, hoạt động vận chuyển lưu huỳnh qua cảng Nantong trên sông Trường Giang đã giảm mạnh vào cuối năm 2018 do cảng này sẽ bị đóng cửa. Nantong là cảng bốc dỡ lưu huỳnh lớn nhất của Trung Quốc và có công suất lưu kho lớn nhất.

Trong quá khứ, cảng Nantong đã lưu kho hơn 800.000 tấn lưu huỳnh vào bất cứ thời điểm nào. Nhưng nay cảng Zhenjiang sẽ trở thành cảng then chốt cho hoạt động nhập khẩu lưu huỳnh, tuy công suất của nó thấp hơn cảng Nantong. Trong 3 năm trước, công suất tối đa hàng tuần của cảng Zhenjiang là 680.000 tấn, công suất vận chuyển lưu huỳnh trung bình mỗi tuần là 305.000 tấn (so với 500.000 tấn của cảng Nantong). Hoạt động cải tạo mở rộng sẽ giúp nâng công suất lưu kho lưu huỳnh của cảng Zhenjiang lên 0,8-1 triệu tấn, nhưng dự kiến sẽ không được hoàn thành trước khi cảng Nantong bị đóng cửa.

Do những sự cố trên, lưu lượng vận chuyển lưu huỳnh tại Trung Quốc sẽ giảm, vì khu vực sông Trường Giang là trung tâm thương mại lưu huỳnh trên thị trường nội địa. Hơn nữa, công suất lưu kho thấp hơn khiến cho các công ty kinh doanh không thể nhập khẩu lưu huỳnh nhiều như trước. Nguồn cung hạn chế kéo theo giá lưu huỳnh trên thị trường Trung Quốc tăng, ảnh hưởng đến sản xuất axit sunphuric cũng như sản xuất phân bón tại đây.

Thị trường phân đạm tại EU

Một số sự kiện liên quan đến các quy định pháp lý trên thị trường phân đạm đã diễn ra trong nửa sau năm 2018 tại châu Âu. Những bất ổn do chúng tạo ra nhiều khả năng sẽ tiếp tục trong năm 2019.

Giữa tháng 8/2018, EU đã bắt đầu xem xét các vụ kiện chống bán phá giá đối với dung dịch UAN nhập khẩu từ Nga, Mỹ, Trinidad và Tobago. Động thái này đã diễn ra trên cơ sở khiếu nại của Hiệp hội các nhà sản xuất phân bón châu Âu.

Nhưng ủy ban châu Âu cho rằng bằng chứng về việc bóp méo giá nguyên liệu tại Nga là không “đầy đủ” do chế độ định giá kép đối với khí thiên nhiên - thành phần chi phí rất quan trọng trong sản xuất UAN. Một cuộc điều tra đã được thực hiện đối với phân bón nhập khẩu vào EU trong thời gian từ 1/7/2017 đến 30/6/2018, trong số đó gần hai phần ba được nhập vào Pháp.

Giữa tháng 11/2018 EU đã quyết định giảm một phần ba mức thuế chống bán phá giá đối với phần lớn AN sản xuất tại Nga. Động thái này đã diễn ra sau khi nông dân châu Âu và Liên hiệp các hợp tác xã Copa Cogeca cùng với một số tổ chức khác kêu gọi EU loại bỏ thuế chống bán phá giá đối với một số phân bón nhập khẩu. Cụ thể, Copa Cogeca đã yêu cầu EU loại bỏ thuế chống bán phá giá đối với AN nhập khẩu từ Nga. Đây là sắc thuế đã được công bố từ tháng 8/1995. Tuy nhiên, ủy ban châu Âu chỉ quyết định giảm nhưng vẫn giữ lại sắc thuế này. Thuế đánh vào AN nhập khẩu từ Nga đã giảm 30%, từ 47,0 EUR/tấn xuống còn 32,71 EUR/tấn. Thuế của Nga đánh vào AN nhập khẩu từ EU cũng được giảm tương tự, từ mức 32,82 EUR/tấn trước đó.

Trong khi đó, EU lại tiếp tục tập trung vào việc đánh thuế khí thiên nhiên - thành phần chiếm 60-70% trong tổng chi phí sản xuất AN. Chi phí khí thiên nhiên của các nhà sản xuất Nga thấp hơn nhiều so với các đối tác EU. Hiệp hội phân bón châu Âu cho rằng các nhà sản xuất Nga có khả năng cạnh tranh không lành mạnh với các công ty EU nhờ được hưởng mức giá khí thiên nhiên “thấp một cách giả tạo”, không dựa trên quy luật thị trường. Mức chi phí cố định thấp này khuyến khích xu hướng bán phá giá sản phẩm.

Nhưng những mức thuế sửa đổi ít có khả năng sẽ mang lại tác động quan trọng đối với thị trường phân bón EU, đặc biệt là về ngắn hạn. Tuy mức thuế 32,71 ẻ/tấn đánh lên phân bón nhập khẩu vào EU, cùng với mức thuế cơ bản 6,5% đang có hiệu lực khiến cho việc kinh doanh AN ít hấp dẫn, nhiều nhà kinh doanh hiện nay chưa muốn mua AN từ Nga. Nhưng đối với các nhà sản xuất Nga, việc bán với giá thấp hơn vẫn khả thi về mặt kinh tế, nhất là khi thuế đã được giảm. Nếu các nhà kinh doanh quay lại mua và các nhà sản xuất Nga chấp nhận giảm giá, đến một thời điểm nào đó nhập khẩu AN từ Nga vào EU có thể tăng mạnh.

Hiện tại, các nhà sản xuất phân đạm EU có thể giữ được một mức an toàn nhất định về giá cho đến khi thuế nhập khẩu được giảm nhiều hơn hoặc khi có những thay đổi trong quan hệ quốc tế.

Việc EU giữ lại sắc thuế đánh vào AN nhập khẩu từ Nga cũng giúp bảo đảm cho các nhà sản xuất phân đạm tại châu Âu có thể tiếp tục định giá AN cao hơn giá urê - một nguồn phân đạm khác.

Vài ngày sau khi đưa ra quyết định về chống bán phá giá AN, các nhà đàm phán của Nghị viện châu Âu và các nước thành viên EU đã đồng ý về giới hạn hàm lượng Cd xuống 60 mg Cd/kg P2O5 đối với sản phẩm phân bón hoàn thiện. Giới hạn này ít có khả năng sẽ làm gián đoạn mạnh nguồn cung phân lân, vì chỉ ảnh hưởng đến khoảng 25% quặng phốtphat nhập từ Marốc. Tuy nhiên, các nhà sản xuất Nga có thể tận dụng cơ hội này để tăng cường tiếp thị sản phẩm phân lân với hàm lượng Cd thấp của mình và đạt được giá bán tốt hơn.

HV

Theo World Fertilizer, 5/2019